Mô Hình Tổ Chức Và Quản Lý Công Ty Cổ Phần Của Nhật Bản

của HĐQT. Không những thế, Hội đồng giám sát còn tham gia trực tiếp vào việc đưa ra các quyết định quan trọng trong việc quản trị công ty và giám sát các hoạt động của HĐQT. HĐQT thực hiện chức năng điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty. Các thành viên của HĐQT cùng nhau chịu trách nhiệm về việc điều hành,phát triển chiến lược kinh doanh của công ty trong mối liên hệ thường xuyên và báo cáo thường xuyên với Hội đồng giám sát.

Về nguyên tắc,ĐHĐCĐ sẽ bầu chọn thành viên của Hội đồng giám sát. Song, người lao động cũng có quyền lựa chọn thành viên của Hội đồng giám sát theo đạo luật về sự tham gia của người lao động vào quản trị công ty năm 1952 và 1976. Theo đó, tỷ lệ số thành viên của Hội đồng giám sát do người lao động bầu chọn và cổ đông bầu chọn sẽ phụ thuộc vào số lao động của công ty. Đại diện do phía người lao động và cổ đông bầu chọn trong Hội đồng giám sát đều có quyền và nghĩa vụ như nhau. Đối với các CTCP sử dụng trên 500 lao động, một phần ba tổng số thành viên của Hội đồng giám sát sẽ do phía người lao động bầu chọn. Nếu công ty sử dụng trên 2000 lao động, thì một nửa số thành viên của Hội đồng giám sát phải là đại diện do người lao động và công đoàn bầu chọn, song, chủ tịch của Hội đồng giám sát sẽ phải là người do cổ đông lựa chọn, và người này sẽ có lá phiếu quyết định khi số phiếu thuận và phiếu chống bằng nhau. Hội đồng giám sát có thẩm quyền chọn, bổ nhiệm, cách chức các thành viên của HĐQT. Không những thế, Hội đồng giám sát còn tham gia trực tiếp vào việc đưa ra các quyết định quan trọng trong việc quản trị công ty và giám sát các hoạt động của HĐQT. HĐQT thực hiện chức năng điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty.Các thành viên của HĐQT cùng nhau chịu trách nhiệm về việc điều hành, phát triển chiến lược kinh doanh của công ty trong mối liên hệ thường xuyên và báo cáo thường xuyên với Hội đồng giám sát(7).

Như vậy,Hội đồng giám sát trong cấu trúc hội đồng hai tầng theo luật Đức, không giống với BKS hay HĐQT trong các CTCP ở Việt Nam. Bởi lẽ: Thứ nhất, BKS trong CTCP ở Việt Nam do ĐHĐCĐ bầu và chỉ có chức năng cơ bản nhất là



(7) Hoàng Thế Liên, Luật DN – Những điểm mới và một số vấn đề đặt ra trong cơ chế thi hành, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2017.

giám sát công tác quản lý, điều hành của bộ máy tổ chức và quản lý; Thứ hai nó không có thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các thành viên của bộ máy quản lý, điều hành; Thứ ba cũng không có chức năng tham gia quyết định các vấn đề quan trọng về tổ chức và quản lý công ty như Hội đồng giám sát theo luật Đức. Thứ hai, HĐQT theo luật Việt Nam là cơ quan quản lý công ty do ĐHĐCĐ bầu chọn, và chỉ bao gồm các thành viên do cổ đông bầu chọn mà thôi. Khác với ở Đức, người lao động trong các CTCP ở Việt Nam không có quyền lựa chọn và cử đại diện của mình tham gia HĐQT cũng như BKS. HĐQT trong các CTCP ở Việt Nam có thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm TGĐ và những chức danh quản lý quan trọng khác trong công ty. Nó cũng giám sát bộ máy điều hành, nhưng nó không có chức năng giám sát rộng như Hội đồng giám sát theo luật Đức vì một phần quyền lực này đã thuộc về BKS của công ty theo luật định. Thứ ba, thành viên của Hội đồng giám sát theo luật Đức không thể đồng thời có mặt trong ban quản trị, trong khi thành viên của HĐQT trong CTCP của Việt Nam thì có thể nắm giữ các chức vụ điều hànhcông việc kinh doanh hàng ngày của công ty.

1.2.3. Mô hình tổ chức và quản lý công ty cổ phần của Nhật Bản

Mô hình tổ chức và quản lý CTCP của Nhật Bản tuân theo mô hình không hoàn toàn là mô hình hội đồng đơn, nhưng cũng không hẳn là hội đồng kép. Tổ chức nội bộ quản lý truyền thống của CTCTP ở Nhật Bản có thiết lập ĐHĐCĐ, HĐQT và BKS. Tuy nhiên, BKS khác với Hội đồng giám sát trong mô hình hội đồng kép là không tham gia trực tiếp vào việc đưa ra các quyết định quan trọng trong việc tổ chức và quản lý công ty mà chủ yếu thiên về giám sát các hoạt động của HĐQT.

Cổ đông góp vốn vào CTCP, thông qua ĐHĐCĐ quyết định phương hướng kinh doanh và những vấn đề quan trọng của công ty như bầu và bãi miễn thành viên HĐQT.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 92 trang tài liệu này.

Theo LCT Nhật Bản, về nguyên tắc trong CTCP không cần thiết lập HĐQT. Tuy nhiên, LCT quy định có 3 loại CTCP phải thiết lập HĐQT đó là công ty đại

chúng, công ty có thiết lập BKS và công ty có thiết lập các ủy ban(8). Còn công ty có thiết lập BKS là CTCP là công ty đại chúng trừ công ty có thiết lập các ủy ban. Đối với những CTCP không cần thiết phải thiết lập BKS thì cũng có thể thỏa thuận thành lập BKS. Trong CTCP có thiết lập HĐQT thì phải bầu một thành viên làm đại diện HĐQT. (9)Theo pháp luật Nhật Bản, đại diện HĐQT là đại diện công ty, điều hành hoạt động trong công ty, tiến hành giao dịch và ký kết hợp đồng với bên ngoài.

Pháp luật Việt Nam về tổ chức và quản lý công ty cổ phần - 4

Để giải quyết những bất cập phát sinh đảm bảo hoạt động giám sát nội bộ có hiệu quả, Nhật Bản đã du nhập mô hình CTCP có thiết lập các ủy ban. Trong CTCP có thiết lập các ủy ban thì có đại diện điều hành, còn trong CTCP chỉ có một người điều hành thì người này trở thành đại diện điều hành (LCT Điều 420 Khoản 1). Trong trường hợp công ty có nhiều người điều hành, thì HĐQT sẽ xác định mối quan hệ giữa những người điều hành, xác định công việc và nhiệm vụ của từng người trong thực hiện Nghị quyết của HĐQT (Điều 416 Khoản 1 Mục 1). HĐQT có nghĩa vụ giám sát đại diện HĐQT điều hành hoạt động kinh doanh, các vấn đề liên quan đến lợi ích của cổ đông, chủ nợ, nhà nước và người lao động. Bởi vậy, LCT Nhật Bản có mục đích hướng tới điều chỉnh lợi ích giữa các chủ thể và duy trì sự tồn tại của nó.(10)

Mô hình quản lý, điều hành kiểu Nhật Bản còn có đặc điểm khá nổi bật là vai trò của các cổ đông pháp nhân (ngân hàng, các quỹ, các công ty…) rất lớn, có thể xem là đóng vai trò trung tâm. Trên thực tế, ở Nhật, các ngân hàng lớn thường được uỷ quyền thay mặt cổ đông giám sát, quản lý các công ty, xem xét các kế hoạch của công ty, trong trường hợp công ty làm ăn kém thì những ngân hàng này thường can thiệp và sẽ buộc công ty phải thay bộ máy điều hành quản lý công ty hoặc buộc phải đưa ra các chiến lược kinh doanh mới.

Qua tổng kết các mô hình nêu trên, có thể thấy rằng, hiện nay trên thế giới cơ bản tồn tại hai chế độ pháp luật khác nhau, một là chế độ tổ chức quản lý CTCP


(8) Nguyễn Văn Quang, Văn hóa pháp luật Nhật Bản - Sự kết hợp truyền thống và hiện đại, Tạp chí Luật học, số 8/2014

(9) Nguyễn Thị Lan Hương, Một số so sánh về CTCP theo LCT Nhật Bản và LDN Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, số 25/2019

(10) Phạm Duy Nghĩa, Chuyên khảo về Luật Kinh tế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. Hà Nội năm 2016

theo kiểu đơn lớp (One-tier Board), hai là chế độ tổ chức quản lý CTCP theo kiểu song lớp (two-tier Board). Nói riêng về chế độ thứ hai, ngoài việc thiết lập một cơ quan chuyên trách thực hiện các hoạt động quản lý điều hành, các CTCP còn phải thiết lập một cơ quan khác chuyên trách thực hiện chức năng kiểm soát. Trong thực tiễn, các công ty theo kiểu đơn lớp cũng thực hiện sự tách biệt chức năng quản lý điều hành với chức năng kiểm soát, tức là các thành viên điều hành chuyên trách công việc quản lý kinh doanh, trong khi các thành viên không điều hành thi có quyền và nhiệm vụ giám sát hoạt động quản lý kinh doanh. Đối với hai chế độ tổ chức quản lý này, điều quan trọng nhất là phải phân định rõ ràng chức trách của hai nhóm người của từng loại. Việc hoàn thiện sự phân định này có thể sẽ khuyến khích các nhà đầu tư từ các nước khác nhau cùng nhau thành lập công ty, và hơn nữa, sẽ đẩy mạnh tiến trình hòa hợp giữa các công ty ở các nước khác nhau trên thế giới.

So sánh với ba mô hình quản lý CTCP điển hình nêu trên thì mô hình quản lý CTCP ở Việt Nam có nhiều điểm tương đồng nhất với mô hình quản lý CTCP theo Luật Công ty của Nhật Bản. Theo đó, Luật Công ty của Nhật và LDNVN 2020 đều quy định cơ cấu quản lý CTCP bao gồm (i) ĐHĐCĐ – cơ quan quyết định cao nhất của công ty; (ii) HĐQT – cơ quan chấp hành nghiệp vụ và đại diện công ty; (ii) BKS – cơ quan giám sát. HĐQT và BKS do ĐHĐCĐ bầu ra, có nghĩa vụ báo cáo công tác và chịu trách nhiệm trước ĐHĐCĐ. HĐQT và BKS là hai cơ quan chức năng và thường trực có địa vị pháp lý ngang nhau. CTCP ở Việt Nam có sự tham gia của cổ đông nhà nước trong cơ cấu cổ đông, mặc dù đạt được mục đích duy trì quyền chi phối trong công ty nhưng trong nhiều công ty, vị thế của cổ đông nhà nước bị lạm dụng dẫn tới làm thiệt hại cho cổ đông nói chung. Ở Nhật Bản nhằm khắc phục tình trạng hình thức hóa của HĐQT. BKS đã xây dựng mô hình tổ chức nội bộ mới trong đó thiết lập các Ủy ban trực thuộc HĐQT trong đó có Ủy ban giám sát làm nhiệm vụ giảm sát thường xuyên hoạt động quản lý điều hành công ty thay cho BKS của mô hình cũ.

Từ việc nghiên cứu các mô hình tổ chức và quản lý CTCP khác nhau trên thế giới cũng như tìm ra mối liên hệ của chúng tới mô hình quản lý CTCP ở Việt Nam, có thể kết luận rằng, việc lựa chọn mô hình tổ chức quản lý nào không phải là điều

quan trọng nhất. Thực ra, điều quan trọng nhất khi lựa chọn bất kỳ một mô hình quản lý nào là pháp luật của mỗi quốc gia cần có quy định cho phép cơ quan quản lý điều hành có đầy đủ thẩm quyền để nó có thể thực hiện chức trách một cách năng động, tích cực và cũng phải luôn chú trọng đến việc thiết lập một cơ chế kiểm soát đắc lực để thực hiện chức năng giám sát mọi hoạt động của cơ quan quản lý điều hành đó.

1.3. Vai trò của tổ chức và quản lý công ty cổ phần

Đối với quyền và lợi ích của các thành viên trong CTCP

Thành viên CTCP chính là các cổ đông, người góp vốn đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của công ty. Tất nhiên mỗi cổ đông luôn mong muốn có được lợi nhuận khi bỏ vốn đầu tư. Một hệ thống quản lý tốt sẽ tạo ra sự tin tưởng, làm cho cổ đông gắn bó với công ty.

Quản lý và tổ chức trong CTCP không chỉ là sự đảm bảo về mặt kinh tế cho các thành viên của công ty mà còn là yếu tố đảm bảo tiếng nói của các cổ đông trong công ty, đặc biệt là với các cổ đông thiểu số. Một hệ thống quản lý và tổ chức tốt luôn đáp ứng được quyền lợi của mỗi cổ đông trong việc đưa ra những quyết định về hoạt động kinh doanh, nói cách khác đó chính là tạo điều kiện cho cổ đông thực sự được sử dụng vốn góp của mình thông qua điều hành công ty.

Đối với sự ổn định và phát triển của chính công ty.

Hoạt động của mọi doanh nghiệp nói chung và với CTCP nói riêng đều vì mục tiêu lợi nhuận. Mọi thành viên của công ty luôn muốn phát triển trụ thế, đem lại lợi ích cho họ. Vai trò của quản lý vì thế lại được thể hiện. Quản lý tốt không chỉ là giúp cho công ty hoạt động ổn định với nguồn vốn bỏ ra mà càng làm cho nguồn vốn đó tăng lên, đó mới thực sự là quản lý có hiệu quả.

Đối với đối tác và khách hàng của công ty.

Khi lựa chọn đối tác, bộ máy quản lý cũng là một yếu tố cần xem xét. Vì vậy, hoàn thiện quản lý cũng là tăng sức hấp dẫn của doanh nghiệp. Có nhiều đối tác cũng có nghĩa là cơ hội phát triển dành cho công ty lớn hơn. Còn với người tiêu dùng, vai trò quản lý công ty mờ nhạt hơn. Trong thương mại hàng hóa, quản lý và tổ chức công ty chủ yếu thể hiện vai trò với khách hàng thông qua phân phối sản phẩm: người

tiêu dùng luôn lựa chọn sản phẩm từ điểm mua bán uy tín, muốn vậy cần phải có bộ máy quản lý tốt. Trong thương mại dịch vụ thì quản lý nội bộ của một công ty có ý nghĩa lớn hơn với khách hàng bởi tiêu dùng dịch vụ là một quá trình, muốn chọn được dịch vụ tốt, người tiêu dùng cũng cần xem xét nhà cung cấp có hoạt động ổn định hay không.

Với nền kinh tế

Doanh nghiệp nói chung và CTCP nói riêng là một bộ phận của nền kinh tế. Chính vì vậy sự tăng trưởng của chúng góp phần ổn định và phát triển cho cả nền kinh tế. Số lượng CTCP là ít hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác nhưng đóng góp của chúng không nhỏ, bởi CTCP thường là các doanh nghiệp có quy mô lớn, nguồn vốn dồi dào. Một hệ thống quản lý yếu kém sẽ đưa công ty đến suy yếu, hơn thế nữa còn ảnh hưởng đến các doanh nghiệp khác và người tiêu dùng, kết quả tất yếu là sẽ gây thiệt hại cho nền kinh tế.

1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và quản lý công ty cổ phần

Điều lệ công ty

Điều lệ CTCP là bản cam kết của tất cả các thành viên công ty về mục đích thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của công ty được các thành viên công ty thông qua và được cơ quan đăng ký kinh doanh xác nhận. Bởi vậy quy định của điều lệ công ty có tính bắt buộc thi hành. Điều lệ công ty không chỉ điều chỉnh các quan hệ đối nội giữa các thành viên trong công ty, thành viên công ty với công ty mà còn điều chỉnh mối quan hệ đối ngoại của công ty với những người liên quan. Quản trị công ty là quá trình phức tạp và điều lệ công ty cho ta thấy tương đối tổng quát về quá trình đó. Đây là cơ sở quan trọng để các nhà đầu tư đưa ra quyết định có bỏ vốn hay không và bỏ bao nhiêu vốn. Do đó, một bản điều lệ tốt cũng là nhân tố khẳng định khả năng quản trị, phát triển công ty.

Cấu trúc vốn

CTCP là loại hình doanh nghệp đa sở hữu, khi tham gia vào CTCP các cổ đông chủ yếu quam tâm đến phần vốn góp. Vốn là toàn bộ tài sản hữu hình thuộc sở hữu của công ty có quyền quản lý, sử dụng và được đưa vào bất kỳ giai đoạn nào của chu trình sản xuất kinh doanh nhằm kiếm lợi nhuận. Vốn của công ty được hình thành từ

nhiều nguồn: vốn vay, vốn tích lũy, vốn góp… Với CTCP, vốn điều lệ được thể hiện dưới dạng các cổ phần, đó là phần chia nhỏ nhất của vốn điều lệ và được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu.Cổ phần bao gồm: cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi.

Với tính chất sở hữu, cơ cấu bộ máy và cơ chế quản trị trong CTCP dựa trên sức mạnh kinh tế của nhóm sở hữu công ty. Trong cơ cấu bộ máy quản trị công ty có sự phân quyền rõ ràng giữa các bộ phận. Sự phân quyền này trước hết dựa trên tỷ lệ vốn góp của các cổ đông nhằm đảm bảo một cơ cấu quản trị chặt chẽ, bảo vệ đến mức tối đa quyền lợi của các cổ đông.

Trong cơ cấu tổ chức quản trị CTCP, ĐHĐCĐ là cơ quan có quyền lực cao nhất, nơi thể hiện tập trung nhất vai trò của các cổ đông. Cổ đông là người góp vốn tạo nên công ty, tùy thuộc vào số lượng cổ phần nắm giữ, họ có vai trò lớn trong việc tồn tại và phát triển của công ty. HĐQT là cơ quan quản lý điều hành hoạt động của CTCP. Cấu trúc vốn góp phần quan trọng trong việc hình thành HĐQT. Điều này thể hiện rằng các cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu tỷ lệ nhất định trong vốn điều lệ công ty có quyền đề cử người vào HĐQT. HĐQT do cổ đông bầu tại ĐHĐCĐ theo nguyên tắc bầu dồn phiếu. Quyền bỏ phiếu gắn liền với cổ phần mà cổ đông nắm giữ.Sự chi phối này cũng thể hiện qua tỷ lệ cổ phần có quyền bầu thành viên BKS.

Cơ cấu thành viên của CTCP

CTCP thườngcó số lượng cổ đông lớn và dễ thay đổi cơ cấu thành viên. Với khả năng huy động, chuyển nhượng vốn linh hoạt, cổ đông CTCP dễ dàng ra nhập hoặc rút khỏi công ty, linh động trong việc chuyển nhượng cổ phần giữa các cổ đông trong công ty với nhau. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới tính ổn định trong nội bộ công ty, vì vậy quản trị công ty cũng gặp phải những khó khăn như ảnh hưởng đến việc thành lập hoặc không thành lập BKStại CTCP.

Quy mô hoạt động của CTCP

CTCP có khả năng thu hút vốnthông qua việc phát hành chứng khoán ra công chúng để đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh khác nhau. Chính vì vậy, CTCP thường có quy mô hoạt động rộng trong nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề và cũng kéo theo việc quản trị CTCPthường gặp nhiều khó khăn, không đơn giản so với một số loại hình doanh nghiệp khác.

Trình độ cổ đông, năng lực đội ngũ lãnh đạo

Hoạt động của ĐHĐCĐ là hoạt động tập thể nên trình độ, kinh nghiệm của cổ đông có ảnh hưởng lớn đến CTCP. Nếu cổ đông là người có năng lực, trình độ cao thì dễ dàng lựa chọn những phương pháp hợp lý để quản lý hữu hiệu. Là cơ quan quyền lực cao nhất có sự tham gia của các cổ đông nhưng ĐHĐCĐ lại không hoạt động thường xuyên, 01 năm chỉ tiến hành một vài lần. Vì vậy, hoạt động điều hành hàng ngày của lãnh đạo công ty giữ vai trò quan trọng.Các nhà lãnh đạo giỏi là nhữngngười có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm làm việc và hơn hết là tâm huyết với công ty. Những quyết sách đúng đắn của họ góp phần không nhỏ tới hiệu quả hoạt động của công ty.Vì vậy, đội ngũ lãnh đạo giỏi là chìa khóa thành công của doanh nghiệp.

Xem tất cả 92 trang.

Ngày đăng: 17/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí