Thực Trạng Pháp Luật Việt Nam Về Tổ Chức Và Quản Lý Công Ty Cổ Phần

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Tóm lại,CTCP đã trở thành một hình thức tổ chức kinh doanh có khả năng huy động vốn lớn cho việc thực hiện hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Cùng với sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của loại hình CTCP, vấn đề tổ chức và quản lý CTCP ngày càng được quan tâm, đó là giải quyết vấn đề phát sinh từ việc tách quyền sở hữu và quản lý doanh nghiệp. Nghiên cứu về quản trị công ty là tập trung nghiên cứu về cấu trúc nội bộ và các nguyên tắc quản lý công ty. Thực hiện quản lý công ty tốt sẽ góp phần cải thiện hoạt động của CTCP, từ đó đẩy mạnh phát triển kinh tế bền vững. Đó là những nội dung cần thiết làm cơ sở cho việc phân tích và bình luận về pháp luật Việt Nam về tổ chức và quản lý CTCP được trình bày tại Chương 2.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ CÔNG TY CỔ PHẦN

2.1. Nguồn luật điều chỉnh về cơ cấu tổ chức và quản lý công ty cổ phần

CTCP là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn.Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý, những vấn đề quản lý nội bộ, quyền và nghĩa vụ của các cổ đông được giải quyết chủ yếu dựa trên nguyên tắc đối vốn (nghĩa là dựa trên giá trị cổ phần mà các cổ đông nắm giữ).Cơ sở pháp lý về về cơ cấu tổ chức và quản ý công ty cổ phần được cụ thể như sau:

- Luật doanh nghiệp 2020 được Quốc hội ban hành theo Luật số: 59/2020/QH14 ngày 17 tháng 6 năm 2020;

- Bộ Luật Dân sự 2015 Công ty cổ phần có đầy đủ các yếu tố để được coi là có tư cách pháp nhân theo Điều 74 Bộ Luật Dân sự 2015;

- Nghị định 01/2021/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp;

- Căn cứ Luật Đầu tư 2020 số 61/2020/QH14 ngày 17 tháng 6 năm 2020 ;

- Căn cứ Luật Quản lý thuế 2019 ngày 13 tháng 06 năm 2019;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 92 trang tài liệu này.

- Căn cứ Luật Chứng khoán 2019 ngày 26 tháng 11 năm 2019;

- Căn cứ Luật Thi hành án hình sự 2019 Luật số: 41/2019/QH14 ngày 14 tháng 6 năm 2019;

Pháp luật Việt Nam về tổ chức và quản lý công ty cổ phần - 5

- Căn cứ Luật Phá sản Số: 51/2014/QH13 ngày 19 tháng 6 năm 2014

- Căn cứ Luật Giao dịch điện tử ngày 29 tháng 11 năm 2005;

- Căn cứ Luật An toàn thông tin mạng ngày 19 tháng 11 năm 2015

- Căn cứ Luật An ninh mạng ngày 12 tháng 6 năm 2018;

- Nghị định số 47/2021/NĐ-CP ngày 01 tháng 04 năm 2021 của chính phủ về việc hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp 2020;

- Thông tư 01/2021/TT-BKHĐT hướng dẫn về đăng ký doanh nghiệp do Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành;

- Quyết định số 15/2007/QĐ-BTC ngày 19 tháng 03 năm 2007;

- Quyết định số 15/2007/QĐ-BTC của Bộ Tài chính.

Như vậy, xét cả trực tiếp và gián tiếp thì các văn bản Luật điều chỉnh về CTCP sẽ tác động rất lớn đến phát triển thị trường vốn, giúp doanh nghiệp cơ hội lớn hơn trong huy động nguồn vốn đầu tư ngoài nguồn vốn vay từ tài chính tín dụng truyền thống. Tuy nhiên, việc hoàn thiện và thực thi luật pháp chỉ hướng tới tạo lập môi trường, mở rộng cơ hội cho doanh nghiệp. Việc tận dụng thành công cơ hội sẽ phụ thuộc phần lớn, nếu không nói chủ yếu vào chính doanh nghiệp: các doanh nghiệp có nhận thức và nỗ lực tích cực thì sẽ có nhiều điều kiện để thành công lớn hơn hoặc nhanh hơn. Luật cũng có một số cải cách khác đã được thực hiện về thuế môn bài, hóa đơn điện tử,… rút ngắn đáng kể cả thời gian và chi phí cho khởi sự kinh doanh, nâng cao xếp hạng của Việt Nam theo đánh giá của quốc tế (cụ thể là đánh giá của WB). Sự thay đổi này đã cải thiện khuôn khổ pháp lý về quản lý doanh nghiệp và bảo vệ nhà đầu tư, cổ đông; Quản lý doanh nghiệp tốt và hoạt động kinh doanh hiệu quả; Nâng cao hiệu lực tổ chức và quản lý, hiệu quả hoạt động doanh nghiệp có sở hữu nhà nước, thúc đẩy phát triển thị trường vốn. Tuy nhiên hiện một số hạn chế tác giả sẽ đề cập cụ thể ở phần tiếp theo đó.

2.2. Thực trạng các quy định pháp luật về tổ chức và quản lý Công ty cổ phần theo Luật doanh nghiệp 2020

2.2.1. Thực trạng về cấu trúc quản lý nội bộ công ty cổ phần

Lịch sử hình thành và phát triển của công ty cổ phần cho thấy sự thành bại của công ty cổ phần phụ thuộc vào sự tận tâm và lòng trung thành của người quản lý công ty cổ phần. Những bổn phận mang tính đạo đức dần trở thành những trách nhiệm pháp lý của chủ thể đặc biệt này. Pháp luật hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có những quy định hoặc chuẩn mực về trách nhiệm của người quản lý công ty cổ phần. Ở Việt Nam, trách nhiệm của người quản lý công ty cổ phần cũng bước đầu được quy định trong Luật Doanh nghiệp 2014 và tiếp tục được ghi nhận trong Luật Doanh nghiệp năm 2020. Hiện nay, công ty cổ phần là một trong những loại hình doanh nghiệp phổ biến nhất bởi tính linh hoạt và những ưu điểm vượt trội so với các loại hình doanh nghiệp khác. Với yêu cầu tối thiểu phải có 3 cổ đông sáng lập trở lên và không giới hạn tối đa số cổ đông tham gia góp vốn cùng với quyền được phát hành tất cả các loại chứng khoán để huy động vốn, công ty cổ phần đòi hỏi việc tổ chức và

quản lý công ty phải có tính hệ thống, cụ thể và chặt chẽ hơn các loại hình doanh nghiệp khác.Theo quy định tại khoản 2 Điều 137 Luật Doanh nghiệp 2020, công ty cổ phần có thể được tổ chức dưới 02 mô hình sau:

Mô hình thứ nhất gồm: Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Ban kiểm soát. (Trường hợp công ty có dưới 11 cổ đông và các cổ đông là tổ chức sở hữu dưới 50% tổng số cổ phần của công ty thì không bắt buộc phải có Ban kiểm soát)(11).

Mô hình thứ hai gồm: Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc (Trường ít nhất 20% số thành viên Hội đồng quản trị phải là thành viên độc lập và có Ủy ban kiểm toán trực thuộc Hội đồng quản trị)(12).

Như vậy về cơ bản, cơ cấu tổ chức quản lý Công ty Cổ phần bao gồm: Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị; Giám đốc (Tổng giám đốc); đối với công ty cổ phần có trên 11 cổ đông là cá nhân hoặc có cổ đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của công ty phải có Ban kiểm soát. Có thể thấy rằng, kể từ khi LDN được ban hành và đi vào thực tiễn cuộc sống, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phát triển đa dạng và sôi động. Các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển mạnh dưới các hình thức đầu tư khác nhau trong đó có CTCP, đây là một trong các loại hình công ty đầu tư theo LDN.

Tuy LDN hiện hành tại Việt Nam (LDN năm 2020) đã đi vào thực tiễn và có những vai trò nhất định. Bên cạnh các vai trò, vẫn còn đó một số vấn đề mà các CTCP (khu vực kinh tế nhà nước và tư nhân) trong lúc triển khai về công tác quản lý đều còn rất lúng túng, chưa theo kịp những quy định cũng như các thông lệ về tổ chức và quản lý, cụ thể như sau:

Thứ nhất, về quyền của cổ đông

Các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành cho thấy rằng, quyền và lợi ích hợp pháp của các cổ đông thiểu số và nhóm các cổ đông thiểu số nói riêng trong công ty cổ phần chưa thực sự được bảo vệ. Cổ đông và nhóm cổ đông thiểu số gần như bị áp


(11) Luật doanh nghiệp 2020 số 59/2020/QH14 ngày 17 tháng 06 năm 2020, Điều 137.

(12) Luật doanh nghiệp 2020 số 59/2020/QH14 ngày 17 tháng 06 năm 2020, Điều 137.

đảo hoàn toàn bởi các cổ đông lớn trong công ty cổ phần và luôn chịu những bất lợi. Còn đối với cổ đông nói chung và cổ đông thiểu số nói riêng khi phát hiện những sai sót, gian lận trong quá trình điều hành của các cấp quản lý công ty đều có quyền khởi kiện. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật hiện hành chưa tạo những điều kiện thuận lợi nhất để cổ đông thực hiện quyền khởi kiện khi phát hiện các gian lận, sai sót trong quá trình hoạt động của cấp quản lý, hay trình tự thủ tục khởi kiện còn nhiều phức tạp, tốn kém về thời gian và tiền bạc của các cổ đông.

Thứ hai, về Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát.

Thực tế ở Việt Nam cho thấy, việc bầu Hội đồng quản trị công ty trong CTCP bị chi phối rất nhiều bởi nhóm cổ đông đa số, trong khi đó Ban kiểm soát trong CTCP chưa thể hiện vai trò bảo vệ cổ đông và nhà đầu tư, do đó các rủi ro mà họ, các cổ đông, nhà đầu tư phải gánh chịu là rất lớn.

Thứ ba, các vấn đề công khai và minh bạch thông tin trong công ty cổ phần. Trong CTCP, vấn đề công khai và minh bạch thông tin là nghĩa vụ của lãnh đạo công ty, các vấn đề này cần phải được thực hiện một cách nghiêm túc, đầy đủ, kịp thời và chính xác. Tuy nhiên, các quy định pháp luật Việt Nam về vấn đề này còn sơ lược cũng như chưa có sự tương thích với các thông lệ quốc tế. Điều đó đã dẫn đến các hệ lụy như làm mất niềm tin của cổ đông, nhà đầu tư, gây thiệt hại cho thị trường

và các bên liên quan.

Quy định về mối quan hệ giữa các thiết chế trong tổ chức và quản lý công ty

- Mối quan hệ giữa Ban kiểm soát với Đại hội đồng cổ đông

Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 LDN 2020, DHDCĐ là cơ quan có thẩm quyền bẩu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên BKS. Nói cách khác, trong công ty cổ phần, BKS là thiết chế phái sinh từ ĐHĐCĐ, hoạt động và chịu trách nhiệm trước ĐHĐCĐ. Khoản 6 Điều 170 LDN 2020 quy định BKS phải báo cáo giải trình về những vấn đề được yêu cầu kiểm tra đến cổ động hoặc nhóm cổ đông có yêu cầu. ĐHĐCĐ thành lập ra BKS, chi trả thù lao cho kiểm soát viên và chi phí hoạt động của BKS, trong khi đó, BKS phải bảo cáo và chịu trách nhiệm trước ĐHĐCD và các cổ đông về các nhiệm vụ được ĐHĐCĐ giao.

- Mối quan hệ giữa Ban kiểm soát với Hội đồng quản trị và ban Giám đốc

Nếu có thể coi CTCP như là một nhà nước thu nhỏ, thì ĐHĐCĐ đóng vai trò là cơ quan lập pháp - nơi quyết định phương hướng phát triển và những vấn đề trọng đại khác của công ty; HĐQT và Ban GĐ được coi là cơ quan hành pháp - nơi điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty; còn BKS đóng vai trò là cơ quan tư pháp - có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hoạt động của HĐQT và Ban GĐ, nhất là vai trò kiểm chế và đối trọng với HĐQT và Ban GĐ công ty.

Với các chức năng được quy định trong LDN 2020 và điều lệ công ty, BKS thực hiện việc giám sát HĐQT, GĐ (TGĐ) trong việc quản lý và điều hành công ty, kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp và tính trung thực, mức độ cần trọng trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong tổ chức công tác kế toán, thống kê và lập báo cáo tài chính cũng như thẩm định bảo cáo tỉnh hình kinh doanh, bảo cáo tài chính hàng năm và sáu tháng của công ty, báo cáo đánh giá công tác quản lý của HĐQT.

Để có thể thực hiện được chức năng chính là giám sát hoạt động của HĐQT và GĐ (TGĐ) công ty cũng như các hoạt động tài chính của công ty, BKS cần phải có sự độc lập trong tổ chức và hoạt động. Thông qua việc thực hiện chức năng của mình, BKS đảm bảo rằng các quyết định của HĐQT và GĐ (TGĐ) là phù hợp với pháp luật, với các nghị quyết của ĐHĐCĐ và bảo vệ một cách tốt nhất lợi ích của các cổ động. Chính vai trò bảo vệ cổ đông, bảo vệ nhà đầu tư là lý do cho sự ra đời, tồn tại và hoạt động của BKS.

Như vậy, so với LDN 2014, LDN 2020 đã kế thừa toàn bộ quy định cho phép CTCP được tổ chức quản lý dưới một trong hai mô hình là có hoặc không có BKS. Với mô hình quản trị có BKS, cấu trúc quản trị nội bộ công ty sẽ gồm có các thiết chế là: ĐHĐCĐ, HĐQT, BKS và GĐ hoặc TGĐ. Giữa các thiết chế này có mối quan hệ qua lại, có sự phân chia các chức năng, nhiệm vụ, chế ước lẫn nhau nhằm tạo ra sự hiệu quả trong QTCT. Mặc dù vậy, sự giám sát của một nhóm thành viên trong HĐQT đối với các thành viên khác được cho là thiếu tính khách quan và hiệu quả so với hoạt động của một cơ quan giám sát độc lập trong cơ cấu quản lý của CTCP theo mô hình truyền thống của LDN 2005. Vì vậy, bên cạnh việc trao quyền tự chủ cho CTCP trong việc lựa chọn mô hình quản lý, pháp luật cũng cần có thêm các quy định để đảm bảo cho sự hoạt động hiệu quả của thành viên độc lập và Ban kiểm toán nội

bộ trực thuộc HĐQT, cũng như sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan quản lý trong CTCP, dù thuộc mô hình nào. Đây là vấn đề cần đặc biệt quan tâm nhằm hoàn thiện hơn nữa hiệu quả tổ chức và quản lý CTCP.

Ví dụ 1, Ngày 1/7/2017, HĐQT Công ty Hapulico ra Quyết định số 23/2017/QĐ-HĐQT về việc lấy ý kiến bằng văn bản thông qua quyết định của ĐHĐCĐ với nội dung: Bãi miễn tư cách cổ đông của Công ty Ba Đình. Tuy nhiên, ngoài phiếu lấy ý kiến nêu trên thì không gửi kèm theo dự thảo quyết định của ĐHĐCĐ và các tài liệu giải trình dự thảo quyết định; không gửi phiếu lấy ý kiến và các tài liệu kèm theo cho cổ đông là Công ty Ba Đình theo quy định của Khoản 2, Điều 105 LDN 2014. Khoản 34.2 Điều 34 Điều lệ của Hapulico cũng quy định về thẩm quyền và thể thức lấy ý kiến cổ đông bằng văn bản để thông qua quyết định của ĐHĐCĐ như sau: HĐQT phải chuẩn bị phiếu lấy ý kiến, dự thảo quyết định của Đại hội cổ đông và các tài liệu giải trình dự thảo quyết định và tài liệu giải trình dự thảo quyết định. Phiếu lấy ý kiến kèm theo dự thảo quyết định và tài liệu giải trình phải được gửi bằng phương thức bảo đảm đến địa chỉ thường trú từng cổ đông. Kết quả giải quyết tranh châp tại bản án phúc thẩm số 21/2017/KDTM-PT ngày 27/01/2017 Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại Hà Nội nêu rõ: có căn cứ để xác định Quyết định số 29/2017/QĐ-ĐHĐCĐ ngày 1/8/2017 của ĐHĐCĐ Hapulico đã không thực hiện đúng trình tự và thủ tục ra quyết định tại Khoản 2 Điều 105 LDN 2014 và Điều 34 Điều lệ Công ty. Như vậy, Quyết định số 29/2017/QĐ- ĐHĐCĐ ngày 1/8/2017 của ĐHĐCĐ Hapulico đã vi phạm trình tự, thủ tục ra quyết định và nội dung quyết định vi phạm pháp luật và Điều lệ công ty, nên cần hủy bỏ theo quy định tài Điều 107 LDN 2017.

2.2.2. Thực trạng về quyền lực của chủ sở hữu trong công ty cổ phần

Trong khuôn khổ tổ chức và quản lý công ty, OECD khuyến nghị cần phải đảm bảo các quyền của cổ đông và chức năng sở hữu chủ yếu, đảm bảo đối xử công bằng giữa các cổ đông như một yếu tố chủ yếu của quản lý CTCP. Chủ sở hữu của công ty (được gọi là cổ đông) mua và sở hữu cổ phần của công ty tương ứng với phần vốn đóng góp của mình vào công ty. Vậy thực trạng quyền lực của cổ đông trong công ty cổ phần hiện nay cụ như sau:

Quyền liên quan tới hệ thống quản lý điều hành công ty

Đây là nhóm quyền quan trọng của cổ đông. Nó thể hiện quyền làm chủ sở hữu công ty. Theo LDN 2020 cổ đông có các quyền như tham dự ĐHĐCĐ, quyền biểu quyết, cổ đông tham dự và phát biểu trong các ĐHĐCĐ và thực hiện quyền biểu quyết trực tiếp hoặc thông qua đại diện ủy quyền trừ cổ đông ưu đãi cổ tức và cổ đông ưu đãi hoàn lại không có những quyền trên. Đối với cổ đông phổ thông thì mỗi một cổ phần có một phiếu biểu quyết còn cổ phần ưu đãi biểu quyết có sổ phiếu biểu quyết cao hơn so với cổ phần phổ thông, số lượng cụ thể do điều lệ công ty quy định. Ngoài ra cổ đông còn có các quyền như là bầu các thành viên HĐQT, thành viên BKS, thông qua các quyết định,...

Trong bối cảnh thực thi về quản lý CTCP ở Việt Nam còn yếu, việc LDN 2020 được ban hành với những yêu cầu mới về cuộc họp ĐHĐCĐ đã tạo ra nhiều cơ hội thuận lợi cho hoạt động của cơ quan này nhưng cũng đang đặt ra nhiều thách thức cho các DN. Cụ thể như sau:

- Các quy định về trình tự và thể thức tiến hành họp ĐHĐCĐ được quy định cụ thể tại luật doanh nghiệp 2020. Tuy nhiên, việc quy định quá chi tiết như vậy, khiến cho việc tổ chức họp ĐHĐCĐ có thể gặp nhiều khó khăn khi triển khai trên thực tế, nhất là với những công ty đại chúng. Trong khi đó chỉ với một vi phạm nhỏ về thủ tục, quyết định của ĐHĐCĐ cũng có thể bị hủy bỏ (trừ trường hợp các nghị quyết, quyết định của ĐHĐCĐ được thông qua bởi cổ đông sở hữu 100% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết). Vì vậy, pháp luật có thể quy định đơn giản hoá thủ tục triệu tập họp ĐHĐCĐ, hoặc quy định những trình tự là điều kiện bắt buộc, và trao quyền tự chủ cho DN quy định trong Điều lệ các trình tự khác nhằm đơn giản hoá thủ tục cho công ty và người triệu tập họp ĐHĐCĐ, mà vẫn đảm bảo được quyền lợi của các cổ đông có quyền dự họp.

- Xét dưới góc độ khác, LDN 2020 cũng thể hiện điểm bất hợp lý và bảo vệ cổ đông đa số nhiều hơn qua việc quy định điều kiện dự họp hợp lệ. ĐHĐCĐ có thẩm quyền rất lớn và là cơ quan có quyền quyết định cao nhất của CTCP. Tuy nhiên, chỉ với cổ đông, hoặc nhóm cổ đông đại diện ít nhất 51%, thậm chí là 33% tổng số phiếu biểu quyết đã có thể tổ chức họp để thực hiện các quyền của ĐHĐCĐ là bất hợp lý,

Xem tất cả 92 trang.

Ngày đăng: 17/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí