Thực Trạng Kiểm Soát Các Giao Dịch Của Công Ty Với Các Bên Liên Quan

xác. Chỉ có như vậy quyền lợi của cổ đông mới được bảo vệ và xã hội mới tránh được những thiệt hại từ sự sụp đổ của các Công ty cổ phần.

Với các đặc điểm nói trên, BKS trên thực tế khó có thể hoàn thành được chức năng, nhiệm vụ như luật định và trở nên hình thức, chỉ đóng vai trò là người giám sát bị kiểm duyệt chứ chưa phải là một thể chế giám sát nội bộ, độc lập, chuyên môn và chuyên nghiệp để cân bằng lại quyền lực của HĐQT và BGĐ, phục vụ cho lợi ích tối đa của công ty và cổ đông của công ty.

Ví dụ: Bản án số 208/2018/KDTM-PT của Tòa Phúc thẩm TAND tối cao tại Hà Nội hủy quyết định của ĐHĐCĐ CTCP Giống cây trồng Hà Tây vì đã không bầu ban kiểm phiếu đúng theo LDN 2014, không tiến hành biểu quyết từng vấn đề và thu từng thẻ biểu quyết theo LDN 2014, sau khi bế mạc cuộc họp bảy ngày mới thông báo đính chính kết quả kiểm phiếu cho cổ đông.

2.2.4. Thực trạng kiểm soát các giao dịch của công ty với các bên liên quan

Các giao dịch của công ty với các bên có liên quan được xét ở đây gồm 2 nhóm giao dịch: (i) nhóm giao dịch của người quản lý có khả năng xung đột với lợi ích của cổ đông công ty, và (ii) nhóm giao dịch giữa công ty với những người liên quan của cổ đông chi phối có nguy cơ làm hại đến lợi ích của cổ đông thiểu số. Đây là vấn đề ủy quyền giữa cổ đông và người quản lý, cũng như giữa các cổ động với nhau. Các giao dịch của công ty với các bên có liên được quan quy dinh trong Điều 120 LDN, thí dụ như: Giao dịch với cổ đông có hơn 35% cổ phần, nhất là với công ty mẹ: Giao dịch với những người quản lý công ty mẹ, những người có thẩm quyền bổ nhiệm người quản lý công ty mẹ; Giao dịch với những người quản lý công ty, vợ hoặc chồng, cha, cha nuôi, mẹ, mẹ nuôi, con, con nuôi, anh, chị, em ruột của người quản lý công ty,...

Các loại giao dịch nêu trên cho thấy LDN nước ta ngay từ đầu đã không cấm các giao dịch giữa công ty với các bên có liên quan . Điều đó xuất phát từ những lý do rất thực dụng. Đó là thành viên HĐQT, những người quản lý cao cấp và các cổ đông lớn thường là những bạn hàng mà các công ty nhỏ phải giao dịch. Những khách hàng bên ngoài thường không đánh giá được triển vọng của họ hoặc các công ty này buộc phải cung cấp các bí mật kinh doanh hoặc kế hoạch bí mật để đổi lấy niềm tin

của bạn hàng. Thông thường, các giao dịch loại này có thể sinh lợi cao hơn cho công ty so với các giao dịch với những bạn hàng có ít thông tin từ bên ngoài.

LDN đã quy định khá chi tiết và cụ thể các bên có liên quan của công ty và cả chế độ, cách thức kiểm soát các giao dịch của công ty với các bên có liên quan. Tuy vậy, trên thực tế việc kiểm soát các giao dịch loại trên ở nước ta còn hết sức yếu kém, thậm chỉ có thể nói chưa hiện diện trong quy chế chỉ đạo các công ty ở nước ta. Trước hết, các cổ đông, các thành viên HĐQT, các cơ quan thực thi pháp luật và xã hội nói chung chưa thực sự ý thức được sự tồn tại và tác hại đối với lợi ích của công ty, của cổ đông và những người khác, nếu giao dịch của công ty với các bên có liên quan bị lạm dụng. Trên thực tế, trong hầu hết các trường hợp, các công ty chưa xác định cụ thể các đối tượng thuộc diện các bên có liên quan của công ty chưa có cơ chế và cách thức thu thập, tập hợp, lưu trữ và quản lý hồ sơ về các bên có liên quan: chưa xác định danh tinh cụ thể của từng bên có liên quan của công ty:vv. Vì vậy chùm xác định cụ thể các giao dịch cầu kiểm soát với các bên có liên quan. Như vậy, có thể nói, yêu cầu công khai hóa và kiểm soát các giao dịch của công ty với các bên có liên quan hầu như chưa thực hiện được. Đây thực sự đang là một lỗ hổng lớn trong khung chỉ đạo công ty ở nước ta hiện nay.

Ví dụ: Công thức chế biến đố uống nhẹ mang tên Coca Cola là một bí mật kinh doanh của công ty Coca Cola. Chỉ một vài người trong công ty biết được công thức này; và nó được giữ bí mật trong một chiếc hầm của ngân hàng ở Atlanta, bang Georgia; những người biết được công thức bí mật này đã ký hợp đồng không tiết lộ. Chính vì quyết định giữ bí mật về công thức này thay vì đang ký cấp bằng sáng chế, đến nay, công ty Coca Cola vẫn là doanh nghiệp duy nhất có thể sản xuất được loại nước uống đặc biệt được toàn cầu ưa chuộng. Còn nếu công thức này được cấp bằng sáng chế (chỉ đươc bảo hộ tối đa là 20 năm, sau đó sẽ trở thành tài sản chung của nhân loại), mọi thành phần và công đoạn chế biến Coca Cola sẽ được bộc lộ công khai, và cả thế giới đều có thể sản xuất Coca Cola.

Bí mật kinh doanh có thể liên quan đến các loại thông tin khác nhau như kỹ thuật và khoa học (công thức sản xuất, cấu tạo kỹ thuật, mã máy tính, dữ liệu thử nghiệm…); thương mại (danh sách các nhà cung cấp và khách hàng, các chiến lược

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 92 trang tài liệu này.

tiếp thị, quảng cáo và kinh doanh, kết quả nghiên cứu thị trường, phương pháp bán hàng…); tài chính (cơ cấu giá nội bộ, danh mục giá…); thông tin phủ định (tình trạng bế tắc trong nghiên cứu, các giải pháp kỹ thuật đã bị rút bỏ…)….

Cũng theo quy định của Luật SHTT thì các thông tin bí mật sau đây không được bảo hộ với danh nghĩa bí mật kinh doanh như bí mật về nhân thân, như tình trạng hôn nhân, tài sản của cá nhân, bí mật về quản lý nhà nước, bí mật về quốc phòng, an ninh, các thông tin bí mật khác không liên quan đến kinh doanh.

Pháp luật Việt Nam về tổ chức và quản lý công ty cổ phần - 7

Quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên cơ sở có được một cách hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó;

Ngày nay, vấn đề bảo hộ kinh doanh đang được các doanh nghiệp hết sức quan tâm do nhiều yếu tố. Trong đó, mức độ cạnh tranh trên thị trường ngày càng khốc liệt nên các đối thủ chắc chắn không hề muốn chia sẽ thông tin cho nhau. Hơn nữa, khi mà người lao động có quyền tự do lựa chọn và thay đổi nơi làm việc, sẽ có khả năng rất cao là họ mang theo thông tin đến nơi làm việc mới mà thông thường là các đối thủ cạnh tranh của công ty cũ. Cuối cùng, bản thân các thông tin bí mật không phải là giải pháp kỹ thuận nên không thể nào bảo hộ được dưới danh nghĩa sáng chế; và cũng không thể giải trình công khai để đăng ký bảo hộ do tinh bảo mật của thông tin.

Với bí mật kinh doanh, chủ sở hữu có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đọat theo quy định của pháp luật. Những hành vi xâm phạm quyền đối với bí mật kinh doanh bao gồm: tiếp cận, thu nhập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người sở hữu hợp pháp; tiết lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu bí mật kinh doanh; vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, lợi dụng lòng tin của người có nghĩa vụ bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập và làm lộ thông tin thuộc bí mật kinh doanh; tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người khác khi ngừời này làm thủ tục quy định của pháp luật liên quan đến kinh doanh, làm thủ tục lưu hành sản phẩm hoặc bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ quan nhà nước hoặc sử dụng những thông tin đó nhằm mục đích kinh doanh, xin cấp giấy phép liên quan đến kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm.

2.3. Đánh giá thực trạng pháp luật Việt nam về tổ chức và quản lý công ty cổ phần hiện nay

2.3.1. Những thành công

Về cổ đông và quyền cổ đông:

Bảo vệ cổ đông là một nội dung quan trọng trong khung pháp lý về QTCT. Việc hoàn thiện các quy định về bảo vệ quyền cổ đông sẽ góp phần quan trọng làm cho CTCP trở thành một công cụ kinh doanh an toàn, hiệu quả, thông qua đó thúc đẩy đầu tư. Với mục tiêu khi xây dựng LDN 2020 là mở rộng quyền cổ đông, tạo thuận lợi hơn cho cổ đông thực hiện các quyền của mình và bảo vệ quyền lợi của mình khi bị xâm phạm, nâng cao trách nhiệm thành viên HĐQT và người quản lý công ty,…. LDN 2020 tiếp tục kế thừa những quy định tích cực, đồng thời có những sửa đổi cần thiết nhằm khắc phục những hạn chế của LDN 2014 về nội dung này, cụ thể là:

- Sửa đổi các khoản 2 Điều 114, khoản 2 Điều 135, khoản 4 Điều 149, khoản 1 Điều 161 để mở rộng quyền tiếp cận thông tin của cổ đông về tình hình hoạt động của công ty, tạo thuận lợi hơn cho cổ đông thực hiện quyền của mình, như: Bãi bỏ nội dung hạn chế về thời hạn tối thiểu sở hữu cổ phần đối với cổ đông để có thể thực hiện một số quyền nhất định, bổ sung quyền cho ĐHĐCĐ quyết định thù lao HĐQT, quyết định lựa chọn kiểm toán độc lập. Bên cạnh đó, LDN 2020 cũng bổ sung thêm quy định về trách nhiệm của cổ đông trong việc bảo mật các thông tin mà cổ đông có quyền được xem xét, tra cứu, trích lục từ công ty tại Khoản 5 Điều 119.

- Bổ sung quy định về chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết (Điều 113), đồng thời, bổ sung khoản 6 Điều 144 về quyền biểu quyết đối với cổ phần phổ thông đã được lưu ký để phát hành chứng chỉ ký quỹ không có quyền biểu quyết để tương thích với nội dung được sửa đổi tại Điều 113 và Luật Chứng khoản 2019

Đại hội đồng cổ đông

Bổ sung thêm quy định về thẩm quyền của ĐHĐCĐ tại Khoản 2 Điều 138 với các quyền như: Quyết định thù lao cho thành viên HĐQT, kiểm soát viên; quyết định ngân sách HĐQT, BKS; phê duyệt quy chế quản trị nội bộ; quy chế hoạt động HĐQT,53 BKS; phê duyệt công ty kiểm toán độc lập; quyết định công ty kiểm toán độc lập thực hiện kiểm tra khi xét thấy cần thiết. Đây là các nội dung quan trọng, có

ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến quyền và lợi ích của chính các cổ đông. Theo thông lệ quản trị công ty tốt, thì cổ đông phải có quyền tham gia thảo luận và quyết định về những vấn đề như: Quyết định kiểm toán độc lập; quyết định thù lao và ngân sách hoạt động cho HĐQT, BKS,….

Theo quy định của LDN 2020 thì thù lao của HĐQT và tiền lương của GĐ (TGĐ) và người quản lý khác phải được ĐHĐCĐ thông qua tại cuộc họp thường niên chứ không phải chỉ cần báo cáo trước ĐHĐCĐ như quy định trước đây của LDN 2014. Quy định mới này nhằm hạn chế lạm dụng quyền hạn của những người này cho lợi ích cá nhân mình (tự mình trả thù lao cao cho chính mình), gây thiệt hại đến lợi ích của cổ đông, đặc biệt là cổ đông, nhà đầu tư nhỏ, lẻ. Sửa đổi khoản 1 Điều 144 để làm rõ thêm quy định về bầu dồn phiếu là một chế định bầu thành viên HĐQT đặc biệt, tách bạch với cơ chế thông qua nghị quyết khác quy định tại khoản 1 và 2 Điều

114. LDN 2020 cũng bỏ yêu cầu phải có mẫu chỉ định đại diện theo ủy quyền dự họp trong thông báo mời họp ĐHĐCĐ (được quy định tại Điều 139 LDN 2014). Thực tế cho thấy, trong nhiều trường hợp, công ty lạm dụng quy định về ban hành và gửi mẫu chỉ định đại diện uỷ quyền cho cổ đông, để nhằm hạn chế quyền dự họp của cổ đông. Ví dụ, mẫu dự họp thường xuyên thay đổi, gửi mẫu dự họp sát thời gian họp,…. Gây khó khăn hoặc thậm trí khiến cho cổ đông, đặc biệt là cổ đông nước ngoài, không kịp đủ thời gian để ủy quyền cho người khác dự họp, vì các thủ tục hành chính như ủy quyền, hợp pháp hóa lãnh sự,… tốn nhiều thời gian. Do đó, Điều 139 được sửa đổi theo hướng bãi bỏ việc cổ đông chỉ được sử dụng mẫu chỉ định đại diện ủy quyền do công ty phát hành, thay vào đó, họ có quyền thực hiện ủy quyền với hình thức phù hợp theo quy định của pháp luật dân sự.tính hợp pháp của thể thức tham dự họp và biểu quyết thông qua hội nghị trực tuyến, bỏ phiếu điện tử hoặc hình thức điện tử khác; gửi phiếu biểu quyết đến cuộc họp thông qua gửi thư, fax, thư điện tử. Quy định này cũng phù hợp với pháp luật một số quốc gia trên thế giới. Cổ đông tham gia họp ĐHĐCĐ bằng hình thức thông qua phương tiện điện tử như truyền hình trực tiếp, kết nối hai chiều, cho phép cổ đông biểu quyết trước hoặc trong khi họp ĐHĐCĐ mà không cần có mặt.

Hội đồng quản trị

Sửa đổi Khoản 4 Điều 149 LDN 2014 theo hướng cho phép bất kỳ cổ đông nào của công ty cũng có quyền khởi kiện tại Tòa án để yêu cầu đình chỉ hoặc hủy bỏ nghị quyết của HĐQT trái pháp luật hoặc điều lệ công ty gây thiệt hại cho công ty thay vì chỉ có cổ đông sở hữu cổ phần của công ty liên tục trong thời hạn ít nhất 01 năm mới có quyền yêu cầu HĐQT đình chỉ thực hiện nghị quyết nói trên. Quy định này nhằm mở rộng phạm vi quyền của cổ đông, nâng cao mức độ bảo vệ cổ đông, nhà đầu tư. Theo nội dung sửa đổi, cổ đông được trao thêm quyền yêu cầu Tòa án đình chỉ thực hiện hoặc quyết định hủy bỏ nghị quyết được thông qua không phù hợp với pháp luật, điều lệ hoặc nghị quyết ĐHĐCĐ.

Kế thừa quy định đã có tại LDN 2014, LDN 2020 cũng quy định trong trường hợp cần thiết, CTCP có thể có Thư ký công ty để hỗ trợ cho HĐQT và Chủ tịch HĐQT trong việc thực hiện các nghĩa vụ thuộc thẩm quyền nhưng do HĐQT quyết định tuyển dụng chứ không phải Chủ tịch HĐQT tuyển dụng như quy định tại LDN 2014. Sửa đổi này hoàn toàn phù hợp bởi lẽ Thư ký công ty là thiết chế được thiết lập nhằm hỗ trợ cho hoạt động của HĐQT chứ không phải thư ký riêng của Chủ tịch HĐQT

Nghĩa vụ của người quản lý công ty

LDN 2020 bổ sung thêm quy định hoàn toàn mới và rõ ràng về trách nhiệm pháp lý mang tính vật chất là trách nhiệm bồi thường thiệt hại, hoàn trả lợi ích đã nhận củangười quản lý công ty trong trường hợp vi phạm trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ.

Khoản 2 Điều 165 quy định: Thành viên HĐQT, GĐ (TGĐ) và người quản lý khác vi phạm quy định tại Khoản 1 Điều này chịu trách nhiệm cá nhân hoặc liên đới đền bù lợi ích bị mất, trả lại lợi ích đã nhận và bồi thường toàn bộ thiệt hại cho công ty và bên thứ ba. Quy định mới này là hoàn toàn hợp lý nhằm nâng cao trách nhiệm của người quản trị đồng thời tạo thuận lợi hơn cho cổ đông trong việc khởi kiện người quản lý cũng như Tòa án, trọng tài trong xử lý tranh chấp có liên quan, phù hợp với thông lệ quốc tế tốt về QTCT.

Khoản 5 Điều 164 quy định thành viên HĐQT, GĐ (TGĐ) nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác để thực hiện công việc dưới mọi hình thức trong phạm vi công việc kinh doanh của công ty đều phải giải trình bản chất, nội dung của công việc

đó trước HĐQT, BKS. Họ chỉ được thực hiện công việc này khi được đa số thành viên còn lại của HĐQT chấp thuận. Nếu thực hiện công việc đó mà không khai báo hoặc không được sự chấp thuận của HĐQT thì tất cả thu nhập có được từ hoạt động đó thuộc về công ty. Rõ ràng đây là tình huống hoàn toàn mới và dường như ít khi xuất hiện trong thực tế kinh doanh tại Việt Nam từ trước đến nay nhưng sẽ trở thành bắt buộc trong tương lai

2.3.2. Những nhược điểm

Thực thi pháp luật của công ty cổ phần

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đa dạng về hình thức, đồ sộ về số lượng, không được thường xuyên rà soát, hệ thống hoá khiến người dân rất khó tiếp cận, tìm hiểu và tuân thủ đúng yêu cầu của pháp luật. Do có quá nhiều loại văn bản, được nhiều cấp ban hành nên mâu thuẫn và chổng chéo là khó tránh khỏi. Sự cồng kềnh, bất cập và mâu thuẫn làm giảm tính thống nhất, minh bạch của pháp luật, làm cho pháp luật trở nên phức tạp, khó hiểu, khó áp dụng và vì thể kém hiệu lực. Với hệ thống pháp luật như vậy, nên việc hiểu để áp dụng và thực hiện pháp luật là chuyện khó khăn không chỉ đối với người dân, doanh nghiệp mà còn đối với cả các chuyên gia pháp lý.

Đại hội đồng cổ đông

Về quyền yêu cầu triệu tập họp ĐHĐCĐ bất thường trong trường hợp HĐQT có vi phạm nghiêm trọng quyền của cổ đông, nghĩa vụ của người quản lý hoặc ra quyết định vượt quá thẩm quyền được giao, Khoản 3 Điều 115 LDN 2020 quy định cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 05% tổng số cổ phần phổ thông trở lên hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn theo quy định tại điều lệ công ty có quyền yêu cầu triệu tập họp ĐHĐCĐ trong trường hợp HĐQT vi phạm nghiêm trọng quyền của cổ đông, nghĩa vụ của người quản lý hoặc ra quyết định vượt quá thẩm quyền được giao. Nhưng LDN 2020 không xác định rõ thế nào là vi phạm nghiêm trọng, và việc xác định vi phạm đến mức độ nào, trong trường hợp nào là nghiêm trọng sẽ rất phức tạp trên thực tế. Do đó, quy định này nếu không được giải thích cụ thể trong điều lệ công ty sẽ khó khả năng được thực thi trên thực tế, làm mất đi tính hiệu quả của LDN trong việc bảo vệ các quyền cổ đông.

Việc LDN 2020 cho phép cổ đông hoặc nhóm cổ đông thỏa mãn Khoản 2 Điều 115 có quyền triệu tập họp ĐHĐCĐ trong một số trường hợp là nhằm bảo vệ quyền lợi của các cổ đông nhỏ trong công ty, hạn chế sự lạm dụng quyền lực kiểm soát công ty của các cổ đông lớn và những chủ thể quản lý công ty (HĐQT và BKS). Tuy nhiên,Khoản 2 Điều 153 LDN 2020 lại cho phép HĐQT có quyền duyệt chương trình, nội dung, tài liệu phục vụ họp ĐHĐCĐ. Như vậy, nếu cổ đông hoặc nhóm cổ đông nêu trên triệu tập họp ĐHĐCĐ mà HĐQT không thông qua chương trình, nội dung, tài liệu cuộc họp thì ĐHĐCĐ trong trường hợp này có thể không tiến hành họp được. Điều này rất dễ xảy ra trong trường hợp HĐQT trị lạm dụng quyền lực để tư lợi và không thông qua chương trình, nội dung cuộc họp.

LDN 2020 chưa xác định rõ tiêu chí người bị khó khăn trong nhận thức hoặc làm chủ hành vi làm căn cứ cho việc ĐHĐCĐ miễn nhiệm thành viên HĐQT. Theo Điểm đ Khoản 2 Điều 17 LDN 2020, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; ngườibị mất năng lực hành vi dân sự; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vikhông được quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam. Tiêu chí khó khăn trong nhận thức hoặc làm chủ hành vi cũng được sử dụng tại Khoản 1 Điều 160 LDN 2020 làm căn cứ để ĐHĐCĐ miễn nhiệm thành viên HĐQT công ty. Tuy nghiên, LDN 2020 không có sự giải thích nào và pháp luật Việt Nam hiện nay cũng không có quy định nào cho phép hiểu khi nào thì một người bị coi là khó khăn trong nhận thức hoặc làm chủ hành vi. Đồng thời, luật cũng không quy định các quyền và vị trí của người quản lý hoặc chủ sở hữu có liên quan sẽ được khôi phục một khi người đó không còn ở tình trạng khó khăn trong nhận thức hoặc làm chủ hành vi. Như vậy, trừ khi điều lệ công ty có quy định giải thích, dự liệu về trường hợp này,các công ty và kể cả cơ quan quản lý nhà nước sẽ không thể có cách hiểu và sự áp dụng thống nhất về nội dung này.

Hội đồng quản trị

LDN 2020 chưa quy định rõ thành viên HĐQT có bắt buộc là cá nhân hay không. Căn cứ vào các quy định của Luật LDN 2020 về HĐQT công ty, đặc biệt là các quy định về điều kiện, tiêu chuẩn của thành viên HĐQT quy định tại khoản 1 Điều 155 thì chưa cho phép chúng ta hiểu rằng thành viên HĐQT bắt buộc là cá nhân hay

Xem tất cả 92 trang.

Ngày đăng: 17/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí