Thực Trạng Pháp Luật Về Quản Trị Công Ty Ở Việt Nam Hiện Nay

tính công ty để giúp Cơ quan quản lý và Hội đồng quản trị tránh khỏi các trách nhiệm.

- Cổ đông, bao gồm cả các cổ đông là tổ chức, cần được cho phép tham khảo ý kiến của nhau về các vấn đề liên quan đến quyền cơ bản của cổ đông như đã được quy định trong các nguyên tắc, trừ một số ngoại lệ để tránh sự lạm dụng.

Thứ ba, đảm bảo đối xử công bằng đối với các cổ đông.

Quy định về quản trị công ty phải đảm bảo sự đối xử công bằng đối với tất cả các cổ đông, bao gồm các cổ đông thiểu số và cổ đông người nước ngoài. Tất cả các cổ đông phải được tạo điều kiện để có thể được đền bù cho những vi phạm quyền lợi của họ.

Thứ tư, đảm bảo vai trò của người có quyền lợi liên quan (Stakeholders) trong việc quản trị công ty.

Quy định quản trị công ty nên thừa nhận các quyền của người có quyền lợi liên quan đã được quy định trong luật hay những thỏa ước chung, đồng thời khuyến khích sự hợp tác tích cực giữa những người có quyền lợi liên quan và công ty vì mục tiêu lợi nhuận, tạo công ăn việc làm và phát triển bền vững của công ty. Cơ chế nâng cao hiệu quả sự tham gia của người lao động cũng vì thế cần được tạo điều kiện để phát triển. Quy định quản trị công ty cần được hỗ trợ bởi các quy định có hiệu quả về phá sản cũng như cơ chế thực hiện hiệu quả các quyền của chủ nợ. Những người có quyền lợi liên quan phải được đền bù cho những vi phạm quyền của mình.

Thứ năm, đảm bảo sự công khai hóa thông tin và sự minh bạch.

Các quy định về quản trị công ty cần đảm bảo việc công khai hóa một cách kịp thời và chính xác những thông tin về tất cả các vấn đề quan trọng của công ty, bao gồm tình hình tài chính, hiệu quả hoạt động, sở hữu và quản trị công ty.

Thứ sáu, đảm bảo tính hiệu quả và trách nhiệm của Hội đồng quản trị trước công ty.

Các quy định quản trị công ty cần được xem là hướng dẫn về chiến lược của công ty, đảm bảo sự giám sát quản lý có hiệu quả của Hội đồng quản trị cũng như trách nhiệm của Hội đồng quản trị trước công ty và các cổ đông.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1‌‌

Trong chương 1, tác giả tập trung vào một số vấn đề lý luận cơ bản về chế độ pháp lý quản trị công ty. Tác giả nhìn nhận công ty dưới giác độ của một tổ chức cần được quản lý thống nhất, cố gắng đưa ra khái niệm pháp lý về quản trị công ty, xem xét nhu cầu và tìm kiếm những yếu tố ảnh hưởng đến việc xây dựng và hoàn chế định quản trị công ty trong khuôn khổ của một luật cơ bản về quản trị - Luật công ty (Luật doanh nghiệp), xác định những nền tảng pháp lý cho việc hình thành một chế định quản trị công ty hiện đại. Trong quá trình đó, tác giả đã tiếp cận nhiều quan điểm, kinh nghiệm pháp lý của các nước khác nhau để có một cái nhìn toàn diện, đồng thời nhận xét, đúc kết về những vấn đề đó để làm cơ sở lý luận cho việc xây dựng và hoàn thiện chế định quản trị công ty hiện đại phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Thực trạng các quy định pháp luật về quản trị công ty cổ phần


Công ty cổ phần là loại hình công ty có cấu trúc quản trị phức tạp nhưng hoàn bị nhất trong số các mô hình tổ chức kinh doanh hiện nay trên thế giới. Loại hình công ty này thể hiện tính ưu việt như: (i) khả năng huy động vốn rất lớn, nhanh chóng và thuận tiện; (ii) khả năng chuyển nhượng vốn linh hoạt;

(iii) tạo điều kiện cho một số lượng lớn nhà đầu tư thu lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh mà không cần phải có kiến thức kinh doanh, cũng không cần trực tiếp tham gia quản lý kinh doanh; (iv) rất thích hợp cho những doanh nghiệp có qui mô sản xuất kinh doanh lớn, đa ngành nghề. Hầu hết các lý thuyết về quản trị công ty hiện nay trên thế giới đều hướng về loại hình này. Các hội thảo quốc tế về quản trị công ty cũng đều xoay quanh nó. Do vậy, việc nghiên cứu chế định quản trị công ty cổ phần trở thành trọng tâm của đề tài này.

Như trên đã phân tích, các quy định của LDN hiện hành khá tiệm cận với các nguyên tắc quản trị công ty phổ biến trên thế giới. Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử - xã hội nhất định nên việc tổ chức quản lý công ty trong thực tiễn qua còn nhiều hạn chế. Các quy định còn chưa chặt chẽ, chưa rõ ràng.

Theo LDN hiện hành, cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần được thiết kế theo hai mô hình khác nhau tùy thuộc vào số lượng cổ đông của công ty. Đối với những công ty cổ phần có trên 11 cổ đông, cơ cấu tổ chức quản lý bao gồm ĐHĐCĐ, HĐQT, GĐ hoặc TGĐ (sau đây gọi chung là GĐ) và BKS. Với mô hình này, việc tổ chức quản lý công ty có sự phân công, phân nhiệm và giám sát giữa các cơ quan quản lý, điều hành và kiểm soát công ty. Về lý thuyết, đây là mô hình quản lý phù hợp và hiệu quả đối với loại hình công ty cổ phần đại chúng. Do vậy, nó được xem là mô hình điển hình của công ty cổ phần.

Trái lại, đối với công ty cổ phần từ 11 cổ đông trở xuống Luật không bắt buộc phải có BKS. Theo đó, mô hình tổ chức chỉ bắt buộc có ĐHĐCĐ,

HĐQT và GĐ. Tất nhiên sẽ hoàn toàn hợp pháp nếu những công ty này thiết lập BKS trong bộ máy tổ chức quản lý của mình. Với cách quy định này, LDN 1999 đã tạo sự linh động cần thiết, chống lại sự cồng kềnh mang tính khiên cưỡng của bộ máy quản lý công ty, đảm bảo khả năng tự chủ kinh doanh của công ty.


Mô hình 1: Mô hình (phải) có Ban kiểm soát


Mô hình 2 Mô hình không có không bắt buộc Ban kiểm soát Để làm rõ vấn đề 1


Mô hình 2: Mô hình không có (không bắt buộc) Ban kiểm soát


Để làm rõ vấn đề mang tính chung nhất chúng tôi tập trung nghiên cứu mô hình 2


Để làm rõ vấn đề mang tính chung nhất, chúng tôi tập trung nghiên cứu mô hình quản trị công ty với đầy đủ các cơ quan ĐHĐCĐ, HĐQT, GĐ và BKS.

2.1.1. Đại hội đồng cổ đông

ĐHĐCĐ là cơ quan có quyền quyết định cao nhất của công ty, bao gồm các tất cả cổ đông có quyền biểu quyết (điều 70 LDN 1999). Bằng cách biểu quyết thông qua Điều lệ công ty, ĐHĐCĐ ấn định quyền hạn, thể thức hoạt động của mình và các cơ quan khác trong công ty. Với vị trí quan trọng đó trong cơ cấu quản trị công ty, LDN 1999 đã quy định tương đối đầy đủ và toàn diện các vấn đề liên quan đến ĐHĐCĐ, từ cơ cấu, thẩm quyền đến thủ tục triệu tập, biểu quyết ra quyết định công ty,... Tuy nhiên, thực tế quản trị công ty vừa qua cũng cho thấy, LDN 1999 đã gặp phải những hạn chế nhất định làm giảm đi khả năng phát huy tác dụng của cơ quan này. Cụ thể là:

- Về vấn đề triệu tập Đại hội đồng cổ đông:

Theo khoản 3 điều 79 của LDN 2005, thì cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất sáu tháng hoặc tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty, có quyền triệu tập ĐHĐCĐ. Quy định này về cơ bản là đúng đắn nhằm bảo vệ quyền lợi của các cổ đông thiểu số chống lại sự lạm dụng quyền lực kiểm soát công ty của các cổ đông lớn và những chủ thể quản lý, điều hành công ty. Tuy nhiên, điểm l khoản 2 điều 108 của Luật lại cho phép HĐQT quyền duyệt chương trình, nội dung, tài liệu phục vụ họp ĐHĐCĐ. Như vậy, nếu nhóm cổ đông trên triệu tập cuộc họp mà HĐQT không thông qua chương trình nội dung, tài liệu cuộc họp thì liệu việc triệu tập cuộc họp đó có được xem là hợp pháp không? Nếu như nó bị xem là không hợp pháp, thì vô hình trung khoản 3 điều 79 sẽ trở nên vô nghĩa trong trường hợp HĐQT lạm dụng quyền lực để không thông qua nội dung, tài liệu cuộc họp.

Một điều quan trọng nữa là, việc tập họp nhóm cổ đông sở hữu 10% cổ phần phổ thông trên thực tế là khó khả thi đối với các cổ đông nhỏ, khi mà danh sách cổ đông không được công khai một cách đầy đủ và chính xác đối với mọi cổ đông, nhất là đối với những công ty có giá trị cổ phần và số lượng cổ đông lớn, hay những công ty không niêm yết nhưng có sự tự do chuyển

nhượng cổ phần giữa các cổ đông với nhau và với người ngoài công ty. Theo khoản 3 điều 86 LDN 2005 thì sổ đăng ký cổ đông được lưu giữ tại trụ sở của công ty hoặc Trung tâm đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán, cổ đông có quyền tra cứu, trích lục, sao chép nội dung sổ đăng ký cổ đông. Tuy nhiên, khi có những sự thay đổi trong sổ đăng ký cổ đông (ví dụ việc chuyển nhượng cổ phần) thì các cổ đông khó có thể cập nhật được các thông tin thay đổi này. Thông thường ở các công ty, sổ đăng ký cổ đông thường được giao cho một thành viên HĐQT thực hiện nắm giữ. Vì thế, các cổ đông khác khó biết được đầy đủ và chính xác danh sách các cổ đông, nếu không được HĐQT cung cấp hoặc HĐQT không thực sự minh bạch.

Như vậy, rõ ràng những cổ đông nhỏ khó có thể biết và liên kết với nhau để hội đủ điều kiện sở hữu 10% cổ phần phổ thông, nếu HĐQT không minh bạch thông tin. Hơn nữa, tại khoản 7 điều 97 của LDN lại yêu cầu người triệu tập cuộc họp phải lập danh sách cổ đông có quyền dự họp ĐHĐCĐ, cung cấp thông tin và giải quyết khiếu nại liên quan đến danh sách cổ đông, chuẩn bị tài liệu, gửi giấy mời họp đến từng cổ đông có quyền dự họp. Chính vì thế, việc triệu tập ĐHĐCĐ của nhóm cổ đông này gần như không được thực hiện trên thực tế. Ở khía cạnh khác, Chúng ta biết rằng, trên thực tế không phải công ty cổ phần nào cũng phát hành chứng khoán ra công chúng, không phải người quản lý công ty nào cũng minh bạch và dễ dàng cho cổ đông tiếp cận với sổ đăng ký cổ đông, mà có những công ty chỉ phát hành cổ phiếu trong nội bộ công ty, pháp luật không bắt buộc họ phải đến đăng ký tại trung tâm đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán. Trong trường này, việc xem danh sách cổ đông tại trụ sở của công ty sẽ trở nên cần thiết đối với cổ đông. Do vậy, Luật cũng sẽ khó khả thi nếu không quy định rõ biện pháp chế tài nhằm hạn chế việc những người quản lý công ty ngăn cản việc tiếp cận thông tin này tại trụ sở công ty.

- Về cách thức thông báo triệu tập ĐHĐCĐ:

Luật DN 2005 quy định người triệu tập phải gửi thông báo đến địa chỉ thường trú của cổ đông, đồng thời đăng thông báo triệu tập lên trang thông tin

điện tử của công ty (khoản 2 điều 100 LDN 2005). Tuy nhiên, LDN 2005 lại không quy định cho phép gửi thông báo qua thư điện tử (email) hoặc thông báo trên báo chuyên nghiệp như các nước trên thế giới, mà điển hình là Trung Quốc. Đối với các quốc gia phát triển, các cổ phiếu vô danh tự do chuyển nhượng trên thị trường không nhất thiết phải làm thủ tục sang tên tại công ty để được ghi tên vào sổ đăng ký cổ đông. Vì thế, việc thông báo triệu tập cổ đông vô danh được thực hiện trên các trang báo chuyên nghiệp. Trong khi đó, khoản 3 điều 87 LDN 2005 quy định nhà đầu tư chỉ được xem là cổ đông kể từ thời điểm có tên trong sổ đăng ký cổ đông. Do đó, LDN 2005 không thừa nhận hình thức thông báo này. Quy định này có thể tạm thời chấp nhận khi các nhà đầu tư tài chính ở công ty cổ phần ở Việt Nam còn mới chập chững bước vào thời điểm “bình minh” của sự phát triển. Tuy nhiên, với xu thế phát triển và toàn cầu hóa hiện nay thì vấn đề này cũng cần được xem xét lại trong tương lai. Riêng việc gửi thông báo qua email thì thiết nghĩ LDN 2005 không nên từ chối phương thức này. Vì nó không chỉ giúp cho công ty giảm bớt chi phí mà còn giúp cho các nhà đầu tư tài chính chuyên nghiệp có thể nắm bắt được thông tin dù không có mặt tại nơi thường trú một thời gian dài.

- Về thể thức tiến hành họp và thông qua quyết định của Đại hội đồng cổ đông:

Đối với các quyết định đặc biệt quan trọng quy định ở điểm b khoản 3 điều 104 LDN 2005, LDN 2005 quy định tỷ lệ tối thiểu thông qua quyết định đặc biệt quan trọng là 75% tổng số cổ phiếu có quyền biểu quyết; đối với các quyết định khác thì tỷ lệ này là 65%. Với quy định mới này các nhà lập pháp tưởng chừng sẽ bảo vệ triệt để được quyền lợi của các cổ đông nhỏ. Nhưng trên thực tế những lỗi trong kỹ thuật soạn thảo tại điểm b khoản 3 điều 104 LDN 2005 có thể mang lại kết quả trái ngược. Cụ thể là khoản 3 điều 104 LDN 2005 quy định: “… nếu Điều lệ công ty không có quy định khác thì phải được số cổ đông đại diện ít nhất 75% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp chấp thuận”. Với cách diễn đạt như thế, có thể hiểu là Điều lệ công ty có quyền quy định khác với tỷ lệ 75%; có thể là quy định mức

Xem tất cả 103 trang.

Ngày đăng: 26/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí