Sự Khác Biệt Giữa Thị Trường Trái Phiếu Doanh Nghiệp Và Thị Trường Cổ

43

có nhiều doanh nghiệp phát hành là các doanh nghiệp lớn, uy tín sẽ giúp cho thị trường xây dựng được một đường cong lãi suất chuẩn làm chuẩn mực cho việc đánh giá tính rủi ro trái phiếu, từ đó đánh giá được sự phát triển của thị trường và của cả nền kinh tế. Nhóm tác giả Guorong Jiang, Nancy Tang và Eva Law khẳng định một thị trường TPDN phát triển có thể đem lại những lợi ích nhất định cho nền kinh tế, trong đó có thể cung cấp một đường cong lãi suất chuẩn; đường cong lãi suất chuẩn cung cấp thông tin hữu ích về kỳ vọng lãi suất của thị trường tương lai và lạm phát17. Cũng theo nhóm tác giả này, một TTTPDN phát triển còn mang lại cho nền kinh tế những lợi ích khác như: là cơ sở để phát triển thị trường phái sinh hiệu quả (chuyển tiếp, tương lai, hoán đổi và quyền chọn); cạnh tranh với các ngân hàng, giảm đi tính độc quyền, sự thống trị của ngân hàng trong việc cung cấp tài chính cho doanh nghiệp; cho phép chuyển rủi ro thông qua chứng khoán hóa (thị trường TPDN cung cấp cho ngân hàng một phương thức quan trọng là bán lại các khoản vay dưới dạng trái phiếu)18... Hoặc ở Malaysia, TTTPDN phát triển và đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu tài chính của nền kinh tế Malaysia đang mở rộng, đặc biệt là quá trình tư nhân hóa dự án cơ sở hạ tầng; cung cấp một phương tiện tài chính thay thế cho vay ngân hàng; tạo cho các doanh nghiệp một cách mới để huy động vốn tiết kiệm trong bối cảnh tỉ lệ tiết kiệm trong nước cao; phân tán rủi ro của hệ thống tài chính19….

1.1.1.2. Sự khác biệt giữa thị trường trái phiếu doanh nghiệp và thị trường cổ

phiếu

Trong lịch sử hình thành và phát triển, pháp luật về TTCK của các nước trên

thế giới nói chung, của Việt Nam nói riêng ghi nhận sự tồn tại của nhiều loại chứng khoán như: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, chứng quyền, chứng khoán phái sinh,.v.v… Trong các loại chứng khoán này, cổ phiếu và trái phiếu là những loại hình chứng khoán truyền thống. Cùng là những chứng khoán cơ bản, chủ chốt của TTCK nên việc điều chỉnh của pháp luật đối với TTTPDN và thị trường cổ phiếu nhìn chung giống nhau. Là hai loại chứng khoán khác nhau nên TTTPDN có sự khác biệt nhất định so với thị trường cổ phiếu. Việc tìm ra sự khác biệt giữa thị



17Guorong Jiang, Nancy Tang and Eva Law (2002), The costs and benefits of developing debt markets: Hong Kong’s experience,BIS Paper No.11 (2002), The development of bond markets in emerging economics, Bank for international Settlements, Monetary and Economic Department, tr.112.

18Guorong Jiang, Nancy Tang and Eva Law (2002), The costs and benefits of developing debt markets: Hong Kong’s experience,BIS Paper No.11 (2002), The development of bond markets in emerging economics, Bank for international Settlements, Monetary and Economic Department, tr.112.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 200 trang tài liệu này.

19Muhamad bin Ibraham and Adrian Wong (2005), The corporate bond market in Malaysia, BIS papers No- 26 (2005) Developing corporate bond markets in Asia, Proceeding of a BIS/PBC seminar held in Kunning, China on 17 – 18 November 2005, tr.118.

44

Pháp luật về thị trường trái phiếu doanh nghiệp ở Việt Nam - 7

trường TPDN và thị trường cổ phiếu đóng vai trò quan trọng bởi điều đó sẽ quyết định sự khác biệt về nội dung pháp luật điều chỉnh các thị trường này.

Thứ nhất, về hàng hóa của thị trường

Hàng hóa được phát hành và giao dịch trên thị trường cổ phiếu là cổ phiếu – là loại chứng khoán vốn, trong khi đó hàng hóa được phát hành và giao dịch trên TTTPDN là trái phiếu – là loại chứng khoán nợ. Cổ phiếu là chứng khoán vốn bởi lẽ nó là công cụ giúp nhà phát hành huy động vốn điều lệ, đồng thời tạo cho người sở hữu nó tư cách cổ đông – người góp vốn vào CTCP. Trái phiếu là chứng khoán nợ bởi lẽ nó là công cụ giúp nhà phát hành huy động vốn vay, đồng thời tạo cho người sở hữu nó tư cách chủ nợ của công ty. Chính vì vậy, khi xây dựng quy chế pháp lý về thị trường cổ phiếu và TTTPDN, nhà nước cần lưu ý tới sự khác biệt về hàng hóa của hai thị trường này để đưa ra những quy định phù hợp.

Với trái phiếu, vì là chứng khoán nợ, là công cụ giúp doanh nghiệp huy động vốn vay nên pháp luật phải “ứng xử” với trái phiếu như ứng xử với một khoản vay. Do đó, các quy định pháp luật liên quan đến trái phiếu trên TTTPDN phải được xây dựng trên cơ sở coi trái phiếu là một tài sản trong quan hệ vay tài sản. Chính vì lẽ đó, quy chế pháp lý về trái phiếu doanh nghiệp – hàng hóa của TTTPDN phải có các quy định đặc thù, khác với quy chế pháp lý về cổ phiếu như sau:

- Chủ thể phát hành trái phiếu phải được quy định đa dạng hơn chủ thể phát hành cổ phiếu. Vay vốn để mở rộng hoạt động đầu tư kinh doanh là quyền của bất kỳ chủ thể kinh doanh nào. Vì vậy, hiển nhiên phạm vi chủ thể có quyền vay vốn thông qua phát hành trái phiếu rộng hơn so với chủ thể huy động vốn góp bằng cổ phiếu. Theo quy định pháp luật hiện hành, chủ thể có quyền phát hành trái phiếu doanh nghiệp bao gồm CTCP và CTTNHH, trong khi đó phát hành cổ phiếu là độc quyền của CTCP.

- Mệnh giá của cổ phiếu thông thường nhỏ hơn mệnh giá của trái phiếu. Công ty cổ phần là đại diện điển hình cho nhóm công ty đối vốn. Lịch sử của công ty đối vốn ra đời từ nhu cầu liên kết về vốn góp giữa các nhà kinh doanh, do đó mục tiêu của nhóm công ty này là hướng tới huy động được vốn góp càng lớn càng tốt. Vì vậy, truyền thống lập pháp của nhà nước Việt Nam cũng như nhiều quốc gia trên thế giới khi xây dựng quy chế pháp lý về CTCP luôn lấy sự linh hoạt, thuận lợi trong quá trình huy động vốn góp của loại hình công ty này làm kim chỉ nam. Một trong những quy định thể hiện sự linh hoạt, thuận lợi ấy chính là quy định về mệnh giá cổ phiếu. Mệnh giá cổ phiếu thường được pháp luật quy định ở mức nhỏ hơn mệnh giá trái phiếu để tạo điều kiện cho bất kỳ cá nhân, tổ chức nào với bất kỳ tiềm lực tài chính nào cũng đều có cơ hội sở hữu cổ phiếu, từ đó tạo cơ sở rộng lớn về

45

chủ thể góp vốn vào CTCP. Sự mở rộng đối tượng mua cổ phiếu giúp CTCP trở nên đúng nghĩa là một công ty đối vốn. Với trái phiếu, thông thường pháp luật quy định mệnh giá lớn hơn so với mệnh giá cổ phiếu. Quy định này phần nào hạn chế được hoạt động vay nợ - hoạt động vốn dễ gây rủi ro cho người cho vay và về cơ bản không phải lúc nào cũng được khuyến khích trong đời sống dân sự cũng như trong hoạt động kinh doanh. Theo quy định pháp luật Việt Nam hiện hành, mệnh giá cổ phiếu là 10.000 đồng, mệnh giá của trái phiếu là 100.000 đồng và bội số của

100.000 đồng.

- Lãi suất của trái phiếu phải được tuyên bố trước cho nhà đầu tư (người cho vay) được biết. Bản chất là chứng khoán nợ, là biểu hiện của một khoản nợ mà nhà đầu tư cho doanh nghiệp vay nên nhà đầu tư cần được biết lợi nhuận mình có thể nhận trong tương lai trước khi quyết định cho doanh nghiệp vay. Điều này cũng tương tự như các khoản cho vay khác mà nhà đầu tư có thể lựa chọn như gửi tiết kiệm ở ngân hàng, cho những người quen biết vay, trực tiếp giao tiền cho doanh nghiệp vay,.v.v… Có thể nói, hưởng lãi suất là quyền tất yếu của bên cho vay trong quan hệ vay tài sản và với thị trường trái phiếu cũng vậy. Vì vậy, pháp luật cần có quy định rò ràng về lãi suất của trái phiếu doanh nghiệp, trong khi đó đối với cổ phiếu điều này là không thể. Cổ phiếu không gắn liền với khái niệm lãi suất mà gắn liền với khái niệm cổ tức. Cổ tức phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp nên doanh nghiệp càng không thể xác định trước hay tuyên bố trước với cổ đông về cổ tức mà họ sẽ được nhận trong tương lai khi phát hành cổ phiếu.

- Thời hạn của trái phiếu luôn được xác định. Trong đời sống dân sự cũng như trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, các khoản vay luôn luôn có giới hạn về thời gian. Tại Điều 463 Bộ luật Dân sự đưa ra khái niệm hợp đồng vay tài sản: “Là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định”. Như vậy có thể thấy bản chất của quan hệ vay tài sản là quan hệ có thời hạn. Trái phiếu là biểu hiện của một khoản vay tài sản nên cũng giống như các khoản vay khác, pháp luật phải quy định về thời hạn cho nó. Pháp luật hiện hành quy định thời hạn của trái phiếu doanh nghiệp là từ 01 năm trở lên. Với cổ phiếu – minh chứng cho một khoản tài sản mà các tổ chức, cá nhân góp vốn vào doanh nghiệp để đầu tư kinh doanh thì việc xác định thời hạn cho nó là không hợp lý. Về nguyên tắc, khi đã góp vốn vào doanh nghiệp, nhà đầu tư phải xác định song hành với doanh nghiệp trong cả quá trình tồn tại của nó từ khi nó được thành lập cho đến khi bị phá sản hoặc giải thể.

46

- Trái phiếu có thể được bảo đảm thanh toán bằng tài sản của doanh nghiệp phát hành hoặc tài sản của bên thứ ba. Trong quan hệ vay tài sản, để phòng ngừa rủi ro cho bên cho vay, pháp luật quy định về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong Bộ luật Dân sự năm 2015. Khi khoản vay được bảo đảm bằng tài sản nhất định, đến hạn trả nợ mà bên vay không trả, bên cho vay có quyền thu hồi khoản đã cho vay thông qua việc xử lý tài sản bảo đảm. Trái phiếu là biểu hiện của một quan hệ vay tài sản nên cũng không nằm ngoài các quy định này. Với cổ phiếu, là hình thức biểu hiện của một khoản vốn góp nên việc quy định về bảo đảm thanh toán cho cổ phiếu bằng tài sản của doanh nghiệp hay của bên thứ ba là hết sức vô lý.

- Trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu nhưng cổ phiếu không thể chuyển đổi thành trái phiếu. Chủ sở hữu trái phiếu thay vì yêu cầu doanh nghiệp thanh toán khoản nợ cho mình thì có thể hoán đổi khoản nợ đó thành khoản vốn góp vào doanh nghiệp. Điều này không những không xâm phạm lợi ích của các chủ thể khác mà ngược lại còn đem lại lợi ích cho các chủ thể. Với bên vay, vừa giảm bớt được một phần nợ, vốn điều lệ lại được tăng lên. Các chủ nợ khác của doanh nghiệp cũng được hưởng lợi từ việc vốn điều lệ tăng lên của doanh nghiệp. Nếu cổ phiếu chuyển đổi thành trái phiếu sẽ đồng nghĩa với việc một phần vốn điều lệ của doanh nghiệp trở thành vốn vay. Điều đó dẫn tới hệ quả vốn điều lệ của doanh nghiệp bị giảm xuống. Trong mọi trường hợp, pháp luật luôn hướng tới mục tiêu hạn chế việc giảm vốn điều lệ của doanh nghiệp vì điều này xâm hại lợi ích chính đáng của các chủ nợ của doanh nghiệp.

Ngoài những điểm khác biệt cơ bản trên, trái phiếu và cổ phiếu còn khác nhau ở một số điểm. Cổ phiếu tạo ra cho người sơ hữu nó tư cách cổ đông – chủ sở hữu công ty nên cổ phiếu đem lại cho người sở hữu nó những quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu doanh nghiệp như: quyền tham gia quản lý, điều hành công ty; quyền biểu quyết về các quyết định quan trọng của công ty; quyền được hưởng lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của công ty; nghĩa vụ góp vốn đầy đủ đúng hạn như đã cam kết; nghĩa vụ thanh toán nợ khi công ty bị giải thể hoặc phá sản;.v.v… Trái phiếu tạo ra cho người sở hữu nó tư cách chủ nợ công ty nên cổ phiếu đem lại cho người sở hữu nó những quyền và nghĩa vụ của một chủ nợ như: quyền được thanh toán nợ gốc và lãi; quyền khởi kiện nếu công ty không thanh toán nợ đúng hạn; quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với công ty; nghĩa vụ giao tiền đầy đủ, đúng hạn cho bên vay; khả năng chịu rủi ro trong việc thanh toán nợ khi công ty bị tuyên bố phá sản;.v.v…

Thứ hai, về chủ thể của thị trường

47

Sự khác biệt lớn nhất giữa TTTPDN và thị trường cổ phiếu về mặt chủ thể đó là sự khác biệt về người mua và người bán. Sự khác biệt này thể hiện rò nhất trên thị trường phát hành. Ở thị trường cổ phiếu, người mua cổ phiếu là các nhà đầu tư và sau khi mua cổ phiếu họ trở thành chủ sở hữu công ty, còn bên bán (CTCP) trở thành vật sở hữu của họ. Ở TTTPDN, người mua trái phiếu là các nhà đầu tư và sau khi mua trái phiếu họ trở thành chủ nợ công ty, còn bên bán (CTCP, CTTNHH) trở thành con nợ của họ. Vì thế quan hệ giữa bên bán và bên mua trên thị trường cổ phiếu là quan hệ sở hữu, trên TTTPDN là quan hệ vay tài sản. Với vị thế của chủ sở hữu công ty, người mua cổ phiếu ngay từ đầu đã được định vị là những người có năng lực tài chính nhất định, là người sẵn sàng đương đầu với những rủi ro trong kinh doanh và họ hướng tới mục tiêu lớn lao là làm giàu. Người mua trái phiếu tuy là chủ nợ của công ty nhưng lại là người yếu thế hơn so với người mua cổ phiếu về mặt tài chính. Họ không sẵn sàng đương đầu với rủi ro trong kinh doanh bởi lẽ khi đã lựa chọn đầu tư vào trái phiếu là họ đã lựa chọn một phương thức đầu tư an toàn, mang tính chất tiết kiệm, tích lũy. Họ là những nhà đầu tư với mục đích gửi tiết kiệm để lấy lãi cố định, an toàn hơn là một người sẵn sàng đương đầu với rủi ro để hướng tới mục tiêu làm giàu. Do đó, người đầu tư vào cổ phiếu thường đã chuẩn bị tâm lý “được ăn cả, ngã về không”, sẵn sàng chấp nhận sự khánh kiệt về tài sản có thể xảy ra, trong khi người đầu tư trái phiếu thì không như vậy.

Ngoài ra, nhà đầu tư trái phiếu về bản chất là người cho doanh nghiệp vay số tiền nhàn rỗi của mình. Thực tế, người có tiền nhàn rỗi có nhiều cách để cho vay, trong đó có những phương thức an toàn hơn mua trái phiếu (ví dụ gửi tiết kiệm ngân hàng). Trong kinh doanh, thương mại, các chủ nợ được coi là những người có “ân huệ” nên về nguyên tắc pháp luật coi nhiệm vụ bảo vệ lợi ích hợp pháp cho chủ nợ là nhiệm vụ hàng đầu. Điều này có thể được chứng minh rò ràng thông qua các quy định trong Luật Doanh nghiệp và Luật Phá sản.

Bên cạnh đó, mặc dù công ty (bên phát hành trái phiếu) là con nợ, người mua trái phiếu là chủ nợ nhưng suy cho cùng quan hệ con nợ - chủ nợ ở đây thực chất là quan hệ giữa người sở hữu cổ phiếu và người sở hữu trái phiếu. Bởi lẽ khi phát sinh nghĩa vụ thanh toán nợ cho người sở hữu trái phiếu thì việc thanh toán đó thực chất được thực hiện trên cơ sở tài sản của những người sở hữu cổ phiếu đã góp vào công ty. Vì những khác biệt này, nghiên cứu sinh cho rằng quan hệ giữa bên mua và bên bán trên TTTPDN cần được quan tâm hơn so với quan hệ giữa bên mua và bên bán trên thị trường cổ phiếu. Sự quan tâm này phải được thiết chế thành những quy định cụ thể. Những quy định đó phải hướng tới sự điều chỉnh chặt chẽ hơn đối với quan hệ giữa bên mua và bên bán trên TTTPDN so với quan hệ giữa bên mua và bên bán

48

trên thị trường cổ phiếu. Nói cách khác, pháp luật phải hướng tới bảo vệ lợi ích của người sở hữu trái phiếu bằng cách thức khác so với người sở hữu cổ phiếu. Điều này cũng được thể hiện trong các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành. Về cơ bản, pháp luật Việt Nam hiện hành đưa ra các quy định mang tính ràng buộc chặt chẽ hơn trách nhiệm của doanh nghiệp khi phát hành trái phiếu so với doanh nghiệp khi phát hành cổ phiếu. Nhận định này được chứng minh thông qua các phân tích của nghiên cứu sinh ở chương 2 của luận án, đặc biệt là các phân tích ở phần điều kiện chào bán trái phiếu ra công chúng; hồ sơ phát hành trái phiếu ra công chúng; về tổ chức xếp hạng tín nhiệm;.v.v…

Thứ ba, về hình thức pháp lý của quan hệ giữa bên phát hành trái phiếu và bên mua trái phiếu

Hình thức pháp lý của quan hệ giữa doanh nghiệp phát hành trái phiếu và các nhà đầu tư mua trái phiếu là quan hệ hợp đồng vay tài sản (bản giao kèo).

Hợp đồng vay tài sản (bản giao kèo) là một thỏa thuận pháp lý giữa tổ chức phát hành và các chủ nợ, trong đó nêu lên các quyền cơ bản của một chủ nợ như: lãi suất cố định (coupon) được hưởng, thời gian thanh toán lãi, phương thức mua lại trái phiếu (nếu có) và các điều khoản khác. Chủ nợ là một bên trong quan hệ hợp đồng này và không phải lúc nào tất cả họ đều là những người có chuyên môn để hiểu được thấu đáo bản giao kèo và khó có điều kiện để giám sát việc tuân thủ bản giao kèo của nhà phát hành. Về phía chủ thể phát hành trái phiếu, họ không thể thực hiện việc giao kết hợp đồng riêng biệt với từng chủ nợ. Do đó, trên TTTPDN cần có sự tham gia của bên thứ ba là người được ủy thác – người đại diện cho cho các chủ nợ. Hợp đồng được lập chung cho tất cả các chủ nợ thông qua người được ủy thác với tư cách đại diện chung cho quyền lợi của các chủ nợ. Người được ủy thác thông thường là các tổ chức tài chính lớn như: các ngân hàng đầu tư, ngân hàng thương mại có uy tín, các công ty chứng khoán.

Để bảo vệ lợi ích của các bên trong quan hệ mua bán trái phiếu và bảo đảm trật tự, an toàn chung của TTTPDN, pháp luật về TTTPDN cần có các quy định cụ thể, rò ràng về các loại hợp đồng liên quan đến thị trường mà trước hết, đó là hợp đồng giao kết giữa doanh nghiệp phát hành và người được ủy thác (đại diện cho các chủ nợ). Hợp đồng này phải thể hiện rò ràng quyền và nghĩa vụ pháp lý của bên phát hành trái phiếu (bên vay) và quyền, nghĩa vụ pháp lý của các chủ nợ (bên cho vay). Ngoài ra, pháp luật về TTTPDN cũng cần có các quy định về hợp đồng các giữa chủ nợ với người được ủy thác. Trong hợp đồng này phải quy định rò ràng quyền, nghĩa vụ pháp lý của các chủ nợ (người ủy thác) và quyền, nghĩa vụ pháp lý của bên được ủy thác. Đặc biệt, Nhà nước cần xây dựng quy chế pháp lý về

49

TTTPDN để có thể ràng buộc trách nhiệm của bên phát hành và bên được ủy thác. Sự ràng buộc trách nhiệm của những chủ thể này nhằm hướng tới bảo vệ lợi ích của các chủ nợ - người được xem là yếu thế so với các chủ thể đó.

1.1.2. Phân loại thị trường trái phiếu doanh nghiệp

Theo tác giả Mu Huaipeng của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc thì: “Cấu trúc của TTTPDN Trung Quốc gồm 02 thị trường chính là thị trường liên ngân hàng và thị trường giao dịch. Thị trường trái phiếu liên ngân hàng là một thị trường giao dịch tại quầy không chính thức (Over the counter- viết tắt là OTC) được định hướng bên ngoài các sàn giao dịch, theo đó các giao dịch được thực hiện dựa trên hỏi giá và trả giá thương lượng trực tiếp giữa hai đối tác giao dịch. Thị trường trái phiếu giao dịch là một thị trường theo trật tự, nơi trái phiếu được giao dịch bên cạnh cổ phiếu trên một cuộc trao đổi, thỏa thuận dựa trên giá đấu thầu”20. Theo cách hiểu này, có thể thấy thuật ngữ thị trường trái phiếu liên ngân hàng mà tác giả Mu Huaipeng đề cập chính là thuật ngữ thị trường trái phiếu phi tập trung quen dùng hiện nay. Sở dĩ tác giả gọi là thị trường liên ngân hàng là bởi thời kỳ sơ khai, việc giao dịch, chuyển nhượng trái phiếu trên thị trường này được thực hiện trên các quầy của các ngân hàng, các công ty chứng khoán hoặc ngay tại công ty phát hành trái phiếu. Còn thuật ngữ thị trường trái phiếu giao dịch mang nội hàm của thuật ngữ thị trường giao dịch tập trung hiện nay.

Trong một cuốn sách của tác giả Moorad Choudhry thì: “Một thị trường có thể mô tả là một sàn giao dịch truyền thống, một sàn giao dịch có địa điểm nhất định nơi giao dịch chứng khoán xảy ra. Ngoài ra, nhiều công cụ tài chính được giao dịch qua điện thoại, điện tử, qua hệ thống máy tính. Những thị trường này gọi là thị trường qua quầy OTC”21. Cũng trong cuốn sách này, tác giả còn chia TTTPDN thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp22.

Nhóm tác giả VK Shama và Chandan Sinha cũng chia TTTPDN của Ấn Độ gồm thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp23.

Ở Việt Nam, trong cuốn Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp đưa ra quan niệm: “Căn cứ vào việc mua, bán chứng khoán lần đầu hay mua, bán lại, thị trường chứng khoán chia thành hai bộ phận là thị trường sơ cấp và


20Mu Huaipeng (2005), The development of China’s bond market, BIS papers No-26 (2005) Developing corporate bond markets in Asia, Proceeding of a BIS/PBC seminar held in Kunning, China on 17 – 18 November 2005, tr. 56.

21Moorad Choudhry (2004), Corporate bonds and structured financial products, 2004, tr.9.

22Moorad Choudhry (2004), Corporate bonds and structured financial products, 2004, tr.9.

23VK Shama and Chandan Sinha (2005),The corporate debt market in India, BIS papers No-26 (2005) Developing corporate bond markets in Asia, Proceeding of a BIS/PBC seminar held in Kunning, China on 17

– 18 November 2005, tr.83, 84.

50

thị trường thứ cấp”24. Trong cuốn giáo trình Luật Chứng khoán của Trường Đại học Luật Hà Nội thì nếu xét theo tiêu chí lưu thông chứng khoán có thể phân ra thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, nếu xét theo phương thức tổ chức và giao dịch thì bao gồm thị trường chứng khoán tập trung, thị trường chứng khoán phi tập trung, thị trường chứng khoán tự do25. Trong cuốn giáo trình Thị trường Chứng khoán của Học viện Tài chính, phân loại TTTPDN được xác định dựa vào các căn cứ sau: Căn cứ vào phương thức giao dịch, TTTPDN chia thành thị trường giao ngay và thị trường tương lai; Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn, TTTPDN chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp26. Ngoài ra, cũng tại cuốn sách này, TTTPDN còn được phân chia căn cứ vào hình thức tổ chức thị trường. Theo căn cứ này, TTTPDN bao gồm thị trường tập trung (còn gọi là thị trường Sở giao dịch) và thị trường phi tập trung (Over the counter market – OTC market)27.

Như vậy, dựa vào các tiêu chí khác nhau mà TTTPDN được phân loại thành nhiều bộ phận khác nhau. Về cơ bản, ở Việt Nam cũng như trên thế giới, các tác giả nghiên cứu về TTCK nói chung và TTTPDN nói riêng khá đồng nhất trong vấn đề này. Nghiên cứu sinh hoàn toàn đồng tình với các quan điểm của các tác giả trong việc phân loại TTTPDN. Trên cơ sở đồng tình và tiếp thu có chọn lọc các quan điểm trên, trong luận án này, nghiên cứu sinh sẽ trình bày phân loại TTTPDN dưới góc độ của sự luân chuyển các nguồn vốn. Ở góc độ này, TTTPDN được chia thành thị trường phát hành TPDN và thị trường giao dịch TPDN. Những căn cứ phân loại khác đều không thể hiện được đầy đủ TTTPDN. Ví dụ, căn cứ vào hình thức tổ chức thị trường bao gồm thị trường tập trung và thị trường phi tập trung, trong khi đó thị trường tập trung và thị trường phi tập trung chủ yếu thuộc giai đoạn giao dịch trái phiếu, tức là giai đoạn mua đi bán lại các trái phiếu đã phát hành. Cách phân loại này gần như đã bỏ qua thị trường phát hành trái phiếu – là nơi khởi tạo hàng hóa cho thị trường. Cách phân loại dựa vào phương thức giao dịch để chia thành thị trường giao ngay và thị trường tương lai cũng chỉ bao hàm một nội dung hẹp của thị trường, đó là thời hạn thanh toán cho trái phiếu đã được mua.

*Thị trường phát hành

Nhóm tác giả của cuốn sách Thị trường Chứng khoán của Học viện Tài chính quan niệm rằng: “Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán chứng khoán mới


24Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, NXB Tư pháp, 2006, tr.710.

25Phạm Thị Giang Thu (2013), Giáo trình Luật Chứng khoán, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân 2013, tr.18 – tr.19

26Bạch Đức Hiển (2009), Giáo trình Thị trường chứng khoán, Học viện Tài chính, Nhà xuất bản tài chính

2009, tr.14 – tr.15.

27Bạch Đức Hiển (2009), Giáo trình Thị trường chứng khoán, Học viện Tài chính, Nhà xuất bản tài chính 2009, tr.116.

Xem tất cả 200 trang.

Ngày đăng: 11/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí