Một Số Đề Xuất Nhằm Phát Triển Thị Trường Trái Phiếu Việt Nam.


hạn của tín phiếu kho bạc là 3 tháng, 6 tháng, 1 năm phát hành thông qua đấu thầu hàng tuần được tổ chức vào thứ hai và được thanh toán vào thứ năm. Từ năm 1929 trở đi, Mỹ không quy định lãi suất tín phiếu kho bạc cố định.

3.2.3. Thị trường trái phiếu các nước Đông Á

Trong suốt thập kỷ 90, Châu Á là tâm điểm của mọi sự chú ý, thập kỷ này bắt đầu bằng những dấu hiệu tích cực đối với hầu hết các quốc gia trong khu vực có tốc độ tăng trưởng cao. Đến năm 1997, khu vực này bị ảnh hưởng của một cuộc khủng hoảng toàn diện khởi nguồn từ Thái Lan, sau đó lan sang Hàn Quốc, Malaysia, Indonesia, Philippine, Hồng Kông và Singapore cũng chịu ảnh hưởng nhưng ở mức độ thấp hơn. Một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng này là tại phần lớn các nước Châu Á, ngân hàng giữ vai trò chủ đạo trong việc rót những khoản tiết kiệm trong nước vào đầu tư, khu vực này cung ứng khoản 80% nợ tài chính, trong khi thị trường trái phiếu chiếm chỉ hơn 20% . Đối với những nước có nền kinh tế phát triển như Nhật, Úc thì con số này là 30 - 40%, đặc biệt lên đến hơn 60% tại Hoa Kỳ (Nguồn: vneconomy.vn/70490P7C708/thi-truong-trai-phieu-phat-trien-cach-nao.htm). Dư nợ nước ngoài quá nhiều dẫn đến việc khi các nhà đầu tư này đồng loạt rút vốn thì các nước ở châu Á không có tiền mặt để trả, điều này đã làm cho rất nhiều ngân hàng rơi vào phá sản. Sau cuộc khủng hoảng các nước châu Á nhận thấy cần phải có một thị trường vốn đa dạng hơn và đặc biệt là một thị trường trái phiếu có quy mô và độ sâu để hỗ trợ tốt hơn nhu cầu vốn đầu tư dài hạn cho nền kinh tế. Nhu cầu vốn dài hạn, tốt nhất nên được thoả mãn bằng các khoản đầu tư dài hạn của những người cho vay dưới dạng cổ phiếu hay trái phiếu dài hạn. Với những nỗ lực cải cách và tái tổ chức hệ thống tài chính, xây dựng cơ sở hạ tầng, hệ thống văn bản pháp lý, cải thiện chính sách vĩ mô… TTTP Châu Á đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cơ sở hạ tầng của TTTP thứ cấp ở các nước Đông Á đang được từng bước xây dựng và cải thiện. Tuy nhiên, ở thị trường Đông Á giao dịch thứ cấp bị phụ thuộc nhiều


vào thị trường sơ cấp. Hoạt động của thị trường thứ cấp có xu hướng tăng giảm theo thị trường sơ cấp. Trong những năm gần đây, các nước Đông Á đã có sự tiến bộ về định chế thị trường. Ví dụ như tại Hông Kông đã sử dụng một hệ thống đơn vị thị trường tiền tệ Trung ương để thực hiện chức năng thanh toán bù trừ và quyết toán. Các công ty xếp hạng tín nhiệm cũng được thành lập và đi vào hoạt động ở nhiều nước. Các nước đã xây dựng hệ thống lãi suất chuẩn dựa trên TPCP (đặc biệt là lãi suất của các công cụ dài hạn). Singapore phát hành trái phiếu kỳ hạn 10 năm vào năm 1998, Hàn Quốc phát hành trái phiếu kỳ hạn 10 năm vào năm 2000, Trung Quốc phát hành trái phiếu kỳ hạn 20 năm vào năm 2001. Tuy có nhiều kỳ hạn đối với trái phiếu nội tệ, song tính thanh khoản hướng vào tập trung vào các trái phiếu có kỳ hạn ngắn [15; trang 46].

Sự tăng trưởng nhanh chóng được dự đoán của TTTP Đông Á tuỳ thuộc vào việc tiếp tục thực hiện các biện pháp quản lý kinh tế vĩ mô và chính sách kinh tế vĩ mô vững chắc và các biện pháp cải cách về định chế.

Từ thực trạng phát triển TTTP của Mỹ và các nước Đông Á cho thấy mặc dù mỗi nước có những đặc điểm khác nhau nhưng đều có những điểm mạnh nói chung mà nước ta cần học hỏi kinh nghiệm:

- Kết cấu hạ tầng cơ sở của TTTP hiện đại, nguồn nhân lực, trình độ quản lý và tốc độ thanh toán cao, phát triển lớn mạnh TTTP trên cơ sở phát triển đồng bộ thị trường sơ cấp lẫn thứ cấp nhằm phát triển tính thanh khoản của trái phiếu.

- TPCP nắm giữ vị trí chủ lực trên TTTP, hình thành lãi suất chuẩn, phản ánh cung cầu thực tế về nhu cầu vốn trên thị trường, làm cơ sở tham chiếu cho các loại lãi suất khác trên thị trường tài chính. TPCP được xếp hạng tín nhiệm cao nhất , mức rủi ro gần bằng 0. Độ an toàn của trái phiếu ưu việt sẽ hấp dẫn nhà đầu tư nhằm phân tán rủi ro danh mục đầu tư.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.


- Sự gia tăng các nguồn vốn nước ngoài đổ vào đầu tư chứng khoán dựa trên uy tín quốc gia, thị trường vốn mở, tỷ giá hối đoái ổn định, tình hình kinh tế vĩ mô, thành tích trong thanh toán nợ nước ngoài, tiềm năng tăng trưởng của quốc gia.‌

Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển - 12

- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, phát triển và nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các công ty xếp hạng tín nhiệm và các tổ chức đầu tư phi ngân hàng, nâng cao hiệu quả hệ thống thanh toán…

3.3. Một số đề xuất nhằm phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam.

3.3.1. Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, khuyến khích tiết kiệm, đầu tư

Để thúc đẩy đầu tư trên thị trường trái phiếu nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung, trước hết, Chính phủ phải ổn định được nền kinh tế vĩ mô. Môi trường vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát sẽ tạo tâm lý yên tâm cho toàn thể công chúng đầu tư trong xã hội. Người dân có thể ổn định được cuộc sống, kinh doanh buôn bán, nâng cao đời sống của mình. Từ chỗ ổn định được cuộc sống hàng ngày, họ sẽ có thể tăng cường tiết kiệm thông qua gửi ngân hàng hay đem đầu tư vào trái phiếu, cổ phiếu, qua đó thúc đẩy sự phát triển của thị trường. Môi trường ổn định, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cũng thuận lợi hơn, doanh nghiệp sẽ có nhu cầu về vốn lớn hơn, thúc đẩy họ đa dạng hoá các kênh huy động vốn, một trong những kênh đó là thị trường trái phiếu. Điều này đặc biệt quan trọng trong giai đoạn nền kinh tế thế giới và Việt Nam đang phải đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính như hiện nay.

Để ổn định được nền kinh tế vĩ mô Nhà nước cần có các chính sách kinh tế, chính sách tài chính tiền tệ phù hợp với từng thời kỳ, thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo thêm nhiều công ăn việc làm và kiềm chế lạm phát.


Nhà nước cũng cần nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường tài chính thông qua việc phát triển hệ thống thông tin để cung cấp thông tin kịp thời giữa người có vốn và người cần vốn; từng bước chuyển các nguồn lực từ hệ thống ngân hàng, các tổ chức tài chính sang thị trường vốn; tăng cường năng lực cung cấp dịch vụ và khả năng tài chính của các trung gian tài chính; nới lỏng các quy định chặt chẽ về kiểm soát luồng chu chuyển vốn để luồng vốn có thể dịch chuyển đến những lĩnh vực đầu tư có hiệu quả nhất, mang lại lợi ích cho cả người đi vay và người cho vay.

3.3.2. Đa dạng hoá các các loại trái phiếu, nâng cao tính thanh khoản cho thị trường

Trái phiếu đa dạng đảm bảo những lợi ích khác nhau cho nhà đầu tư, sẽ tạo nhiều sự lựa chọn cho nhà đầu tư, trên cơ sở đó nhà đầu tư so sánh, phân tích, đánh giá và đi đến quyết định đầu tư. Điều này sẽ kích thích và thu hút nhà đầu tư, thúc đẩy thị trường trái phiếu thêm sôi động.

Đối với trái phiếu Chính phủ

Đa dạng hóa hình thức TPCP, đa dạng hoá không chỉ là việc phát hành nhiều loại TPCP với nhiều kỳ hạn khác nhau mà còn phải kết hợp việc đa dạng hóa về lãi suất, loại hình và phương thức thanh toán vốn gốc và lãi TPCP. Bên cạnh những loại TPCP truyền thống, Chính phủ cần phát triển thêm một số một số loại trái phiếu:

- Trái phiếu trả lãi bằng 0 hay còn gọi là trái phiếu được chiết khấu: là loại trái phiếu giá bán thấp hơn mệnh giá, nhà đầu tư sẽ thu được lợi nhuận tích lũy dưới dạng lãi từ vốn khi trái phiếu đến hạn thanh toán.

- Trái phiếu đa thời hạn: trái phiếu có nhiều ngày đáo hạn khác nhau.

- Trái phiếu thanh toán từng phần: đây là loại trái phiếu mà lãi suất được thanh toán khi đáo hạn nhưng gốc của trái phiếu sẽ thanh toán từng phần theo định kỳ hàng năm. Loại trái phiếu này sẽ giảm áp lực tăng lãi và giảm thiểu rủi ro tái đầu tư, tăng thêm độ an toàn cho người sở hữu trái phiếu.


- Trái phiếu quyền chọn: cho phép người mua trái phiếu có quyền đòi nợ đối với người phát hành tại bất kỳ một thời gian nào đó trong tương lai.

- Trái phiếu có lãi suất thay đổi: lãi suất của nó có thể được thay đổi và điều chỉnh theo từng thời kỳ khi lãi suất thị trường có sự biến động, đảm bảo lãi suất thực dương cho nhà đầu tư vì mục tiêu lãi suất. Loại trái phiếu này sẽ thu hút nhà đầu tư hưởng lãi suất vừa thu hút nhà đầu tư hưởng chênh lệch giá thúc đẩy thị trường TPCP hoạt động sôi nổi.

Phương thức phát hành: Kế hoạch phát hành TPCP cần được xây dựng một cách thống nhất, khoa học và tránh sự chồng chéo triệt tiêu lẫn nhau giữa các đợt phát hành hay giữa các phương thức phát hành với nhau. Đẩy mạnh phát hành TPCP qua phương thức đấu thầu và bảo lãnh phát hành, tuy nhiên nên có sự phân chia khối lượng phát hành cho mỗi phương thức theo kỳ hạn trái phiếu, tránh tình trạng các đợt phát hành diễn ra quá gần nhau làm giảm hiệu quả của các đợt phát hành. Mặt khác, khi phát hành TPCP theo phương thức đấu thầu qua TTCK, cần hạn chế áp đặt lãi suất một cách chủ quan.

Bên cạnh đó, để tạo đường cong lãi suất chuẩn cho thị trường, cần lập chương trình kế hoạch phát hành TPCP, chọn loại TPCP có thời hạn phù hợp để tập trung phát hành lô lớn tạo nên TPCP phát hành chuẩn và hình thành đường cong lãi suất chuẩn, tạo nền tảng cơ bản lãi suất chuẩn cho các công cụ nợ. Đẩy mạnh việc phát hành TPCP lô lớn sẽ giảm số lượng các loại TPCP lưu hành trên thị trường, giúp các nhà đầu tư cũng như các tổ chức trung gian dễ theo dõi, nắm bắt diễn biến về giá của các loại TPCP. Đồng thời giảm dần đến chấm dứt việc phát hành bán lẻ qua hệ thống KBNN.

Cơ chế lãi suất, Chính phủ nên áp dụng lãi suất thả nổi đối với TPCP. Để tăng tính hấp dẫn của TPCP nên áp dụng lãi suất điều chỉnh theo lạm phát và áp dụng phương thức trả lãi linh hoạt như trả lãi trước, trả lãi định kỳ… để nhà đầu tư có thể giảm thiểu rủi ro và đa dạng hoá danh mục đầu tư. Xây dựng một cơ chế lãi suất thực sự hấp dẫn nhà đầu tư kể cả trong điều kiện lạm


phát hay thiểu phát nhằm tối đa lợi nhuận của nhà đầu tư trên cơ sở dung hòa với lợi ích của Chính phủ.

Đối với trái phiếu doanh nghiệp

Thực tế cho thấy thị trường TPDN chỉ chiếm hơn 10% thị trường trái phiếu Việt Nam. Việc tham gia thị trường trái phiếu của các doanh nghiệp trong nước mới chỉ là những bước đi đầu tiên với quy mô nhỏ lẻ, nên bước đầu các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ phát hành trái phiếu ra thị trường nội địa và chủ yếu là chọn hình thức phát hành riêng lẻ, tức là doanh nghiệp có thể thương lượng trực tiếp với người cung cấp vốn. Các quy định về điều kiện để doanh nghiệp phát hành trái phiếu riêng lẻ cũng đơn giản hơn việc doanh nghiệp muốn phát hành trái phiếu ra công chúng. Hiện tại, các trái phiếu doanh nghiệp được phát hành có 2 loại chính: lãi suất cố định, trả lãi hàng năm (lãi suất coupon) và lãi suất thả nổi theo lãi suất thị trường. Trừ trường hợp một số ngân hàng phát hành trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu như Ngân hàng Quân đội hay Ngân hàng Ngoại thương. Trong điều kiện nền kinh tế Việt nam đang hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới, chịu tác động ngày càng nhiều của các biến động kinh tế vĩ mô từ nền kinh tế Mỹ hay các nước Châu Á, thì việc đảm bảo sự ổn định tương đối của giá trái phiếu là điều kiện quan trọng để thu hút các nhà đầu tư. Để phát triển thị trường TPDN cần có những cải cách từ phía Chính phủ và cả doanh nghiệp.

Bộ Tài chính cần phải có những cải cách mạnh mẽ hơn nữa về cơ chế chính sách và kỹ thuật để hỗ trợ cho các doanh nghiệp, chú trọng việc tuyên truyền phổ biến và đào tạo cho các doanh nghiệp về cách thức huy động vốn, kinh nghiệm quản lý quỹ... Để phát triển thị trường TPDN trước hết phải phát triển thị trường TPCP.

Nhà nước đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Cần có chính sách khuyến khích các Tổng công ty nhà nước phát hành trái phiếu để huy động đầu tư vốn dài hạn phục vụ đổi mới công nghệ và tạo hàng hóa


cho TTCK. Trước mắt, các lĩnh vực như hàng không, điện lực, dầu khí, bưu chính viễn thông là những lĩnh vực mà nền kinh tế hiện đang rất cần tăng cường đầu tư và phát triển để tạo đà cho công nghiệp hóa.

Về phía các doanh nghiệp để thành công trong việc phát hành trái phiếu, doanh nghiệp cần phải xây dựng kế hoạch huy động và sử dụng vốn hiệu quả nhằm đảm bảo khả năng thanh toán và tạo sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư cũng như đảm bảo được lợi ích của doanh nghiệp. Muốn vậy, doanh nghiệp cần thực hiện tốt một số vấn đề:

- Trước hết, doanh nghiệp phải xây dựng được chiến lược phát triển dài hạn trong đó gồm cả việc huy động vốn. Doanh nghiệp cần xác định nhu cầu và mục đích huy động vốn, cần gắn việc huy động với việc sử dụng vốn.

- Thứ hai, việc quản lý tốt ngân quỹ là vấn đề phức tạp. Doanh nghiệp phải giải quyết cùng lúc việc thu hút một lượng vốn lớn; phải trả được các khoản nợ và phải có tiền để sản xuất kinh doanh hoặc để đầu tư.

- Thứ ba, việc công bố thông tin liên quan đến việc phát hành trái phiếu phải đảm bảo tính công khai minh bạch tạo lòng tin đối với nhà đầu tư.

Ngoài ra, để tăng tính hấp dẫn và đa dạng, doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu có chuyển đổi thành cổ phiếu hay trái phiếu gắn với quyền mua; đảm bảo sự ổn định trước biến động của nền kinh tế, doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu có lãi suất đảm bảo bằng vàng hay lãi suất thực được đảm bảo dương trong trường hợp lạm phát cao để thu hút nhà đầu tư. Việc phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp trong việc nâng cao năng lực huy động vốn, tăng khả năng linh hoạt trong quản trị vốn, đồng thời tăng khả năng tích tụ, tập trung và phân phối nguồn vốn có chi phí rẻ cho phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn hiện nay.


3.3.3. Phát triển các nhà tạo lập thị trường nhằm thúc đẩy hoạt động của thị trường trái phiếu

Trong điều kiện TTTP còn sơ khai, hình thành và phát triển đội ngũ các nhà tạo lập thị trường là điều cần thiết. Cần có đội ngũ chuyên gia có năng lực làm tư vấn cho Chính phủ để xây dựng chính sách phối hợp đồng bộ giữa các kênh huy động vốn. Để xây dựng đội ngũ các nhà tạo lập thị trường có tiềm năng tài chính đủ mạnh, sẵn sàng mua - bán một lượng trái phiếu nhất định khi có yêu cầu của nhà đầu tư, cần có chủ trương khuyến khích các NHTM và các công ty bảo hiểm có tiềm năng tài chính lớn tham gia.

Có thể nói rằng, các ngân hàng thương mại hiện vẫn được xem là nhà tạo lập thị trường chính trong tương lai, bên cạnh các công ty bảo hiểm hay công ty chứng khoán. Hiện tại, các ứng viên này vẫn đang bận mải với các hoạt động môi giới hay tự doanh chứng khoán hay tư vấn cổ phần hóa doanh nghiệp. Họ vẫn chưa tìm thấy động lực để trở thành nhà tạo lập thị trường trái phiếu. Các văn bản pháp luật cần được ban hành nhằm khuyến khích các ứng viên này trở thành nhà tạo lập thị trường. Trong bối cảnh thị trường chứng khoán đang chìm sâu xuống đáy trong mấy tháng gần đây, việc thúc đấy sự phát triển của thị trường trái phiếu đang “ngủ yên“ càng trở nên cấp bách.

Các chuyên gia cũng có thể trở thành "nhà tạo lập thị trường" đối với một loại chứng khoán cụ thể trong điều kiện phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ. Sự kiểm soát này sẽ hạn chế được các sai phạm nếu họ lạm dụng quyền hành độc quyền của mình tại Sở giao dịch. Bên cạnh đó, các nhà tạo lập thị trường có xu hướng cạnh tranh với nhau do luôn có nhiều nhà tạo lập thị trường đối với một chứng khoán, do đó thị trường OTC được đánh giá là có khả năng tự điều chỉnh tốt hơn thị trường giao dịch chứng khoán tập trung. Cả chuyên gia chứng khoán và nhà tạo lập thị trường đều được tiếp cận với các thông tin đặc biệt do họ thường xuyên tiếp cận trực tiếp với các thông tin trên sổ lệnh, vì vậy họ có nhiều khả năng bị "rò rỉ" thông tin khi có sự biến động thị trường.

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 03/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí