- Thứ hai, trong trường hợp doanh nghiệp cần vốn nhưng ngại phát hành cổ phiếu rộng rãi vì sợ phát hành thêm cổ phiếu sẽ làm pha loãng quyền sở hữu trong doanh nghiệp, hoặc doanh nghiệp có dự án tốt, nhưng không muốn phát hành cổ phiếu, vì không muốn lợi nhuận của mình bị chia đều cho các nhà đầu tư khi phải trả cổ tức cao theo hiệu quả kinh doanh… thì phát hành trái phiếu là một giải pháp tối ưu. Vì thế, doanh nghiệp không sợ bị thao túng mà lợi tức chia sẻ cũng chỉ hạn chế trong phạm vi lãi suất trái phiếu khi phát hành. Ngoài ra, trái phiếu là công cụ huy động vốn có thời hạn nên trách nhiệm của doanh nghiệp đối với trái chủ sẽ kết thúc khi trái phiếu đáo hạn, trong khi doanh nghiệp phải có trách nhiệm đối với cổ đổng nắm giữ cổ phiếu trong suốt thời gian nó tồn tại.
- Thứ ba, chi phí sử dụng vốn khi phát hành trái phiếu thấp hơn phát hành cổ phiếu, do đặc điểm của trái phiếu có tính ổn định và chứa đựng ít rủi ro hơn cổ phiếu. Việc đầu tư vào cổ phiếu có mức độ rủi ro cao hơn so với đầu tư vào trái phiếu, do đó mức bù rủi ro mà nhà đầu tư đòi hỏi đối với trái phiếu thấp hơn cổ phiếu. Công ty phát hành trái phiếu trả lãi cho trái chủ không phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh của công ty, trong khi đó công ty chỉ trả cổ tức cho cổ đông khi kinh doanh có lãi. Hơn nữa, trong trường hợp công ty giải thể hoặc bị phá sản thì trái chủ được ưu tiên trả nợ trước rồi mới đến các cổ đông. Chính vì thế, nhà đầu tư luôn đánh giá mức độ rủi ro của trái phiếu thấp hơn cổ phiếu và tương ứng họ đưa ra mức bù rủi ro đối với trái phiếu thấp hơn đối với cổ phiếu.
Để tham gia TTTP với tư cách là nhà phát hành, các doanh nghiệp phải đáp ứng các yêu cầu về độ tin cậy đối với nhà đầu tư như quy mô hoạt động, hệ thống kế toán – kiểm toán, định mức tín nhiệm… Điều này đặc biệt quan trọng và không thể thiếu khi doanh nghiệp muốn phát hành trái phiếu ra công chúng một cách rộng rãi và niêm yết trái phiếu của mình trên sở giao dịch chứng khoán. TPDN phát hành càng chất lượng thì càng thu hút được nhiều
nhà đầu tư và ngược lại. Chính những yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn củng cố bộ máy tổ chức và quản lý, nâng cao tính cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh, nâng cao mức độ tín nhiệm đối với những người đầu tư. Đây cũng có thể coi là một tác động mang tính gián tiếp của TTTP đối với sự phát triển của các doanh nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung.
1.1.2.3. Đối với nhà đầu tư
TTTP góp phần làm đa dạng hoá các sản phẩm tài chính, cung cấp cho các nhà đầu tư ngày càng nhiều lựa chọn để đa dạng hóa danh mục đầu tư phù hợp với những khẩu vị rủi ro khác nhau. TPCP với độ an toàn cao nhưng lãi suất không hấp dẫn bằng TPDN. Bên cạnh đó, đầu tư vào cổ phiếu sẽ đem lại cho nhà đầu tư tỷ suất lợi nhuận cao hơn tương ứng với mức rủi ro cao hơn. TTTP với các loại trái phiếu và kỳ hạn khác nhau tạo thêm cho nhà đầu tư lựa chọn phương án đầu tư phù hợp.
Đối với nhà đầu tư, trái phiếu có tính ổn định và chứa đựng ít rủi ro hơn cổ phiếu. Trái phiếu luôn có một thời hạn nhất định và khi đáo hạn trái chủ được nhận lại vốn góp ban đầu của mình. Thu nhập chủ yếu của trái phiếu là tiền lãi, đây là khoản thu cố định. Khi đầu tư vào TPDN, trái chủ nhận tiền lãi không phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát hành, đặc điểm này không giống với cổ đông chỉ nhận được cổ tức khi doanh nghiệp kinh doanh có lãi. Thêm một đặc điểm nữa, nếu công ty bị giải thể hoặc phá sản thì trái chủ được ưu tiên trả nợ trước các cổ đông. Vì vậy đây là dạng đầu tư phù hợp với các nhà đầu tư không thích mạo hiểm.
1.2.3. Các chủ thể tham gia thị trường trái phiếu
Có thể bạn quan tâm!
- Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển - 1
- Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển - 2
- Tổng Quan Về Thị Trường Trái Phiếu
- Sự Cần Thiết Của Việc Xây Dựng Hệ Thống Định Mức Tín Nhiệm
- Tình Hình Hoạt Động Của Thị Trường Trái Phiếu Việt Nam
- Khối Lượng Trái Phiếu Doanh Nghiệp Của Việt Nam Phát Hành Từ 2005 Đến 2008
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
TTTP là một thực thể phức tạp mà ở đó có sự tham gia của rất nhiều chủ thể khác nhau. Các chủ thể này có thể tham với mục đích huy động vốn, đầu tư vốn, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ hay quản lý nhà nước.
1.2.3.1. Chủ thể phát hành
Chủ thể phát hành là tổ chức huy động vốn bằng cách bán trái phiếu cho người đầu tư. Chủ thể phát hành là Chính phủ và các doanh nghiệp, hoặc các tổ chức khác theo quy định của pháp luật [6; trang 62-68].
Chính phủ
Chính phủ tham gia vào thị trường trái phiếu với hai tư cách:
Thứ nhất: Chính phủ với tư cách là người tổ chức và quản lý thị trường mà đại diện là Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước. Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước tổ chức, hướng dẫn và quản lý các thị trường chứng khoán, đồng thời soạn thảo các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán để trình các cấp có thẩm quyền xem xét quyết định, cũng như tổ chức và thực hiện các văn bản đó. Ngoài Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, các cơ quan quản lý Nhà nước khác như Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính… cũng có vai trò quan trọng trong hoạt động quản lý đối với các thành viên tham gia thị trường.
Thứ hai: Chính phủ tham gia thị trường như một người phát hành chứng khoán. Để tài trợ cho các dự án đầu tư hoặc chi tiêu, Chính phủ có thể phát hành trái phiếu để huy động vốn. Vai trò của Chính phủ đối với sự hình thành và phát triển TTTP là rất quan trọng, đặc biệt là đối với các thị trường mới phát triển như thị trường trái phiếu Việt Nam.
Các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp là chủ thể quan trọng, cung cấp các loại hàng hoá cho thị trường chứng khoán. TPDN có mức độ rủi ro cao hơn TPCP và là một công cụ hấp dẫn đối với nhà đầu tư. Các doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu để thu hút vốn trên thị trường. Doanh nghiệp có thể tự phát hành hoặc thông qua đại lý hay bảo lãnh phát hành.
Phát triển hoạt động phát hành chứng khoán của các doanh nghiệp sẽ đa dạng hoá các công cụ đầu tư, đồng thời tạo điều kiện phát triển các dịch vụ
cho các trung gian tài chính như: Nghiệp vụ đại lý, bảo lãnh phát hành, nghiệp vụ ngân hàng tín thác, tư vấn phát hành…
1.2.3.2. Chủ thể đầu tư
Nếu như chủ thể phát hành là người tạo ra cung hàng hóa thì chủ thể đầu tư tài chính là người tạo ra cầu của hàng hoá. Người đầu tư là những người có tiền nhàn rỗi, họ sử dụng tiền đầu tư vào trái phiếu bằng cách mua bán trái phiếu trên TTTP nhằm hưởng lãi là kiếm lợi nhuận. Chủ thể đầu tư có thể tham gia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các nhà đầu tư có tổ chức, các trung gian tài chính. Thông thường, lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn và ngược lại. Do đó, khi đầu tư, nhà đầu tư phải xem kỹ các nhân tố như khả năng sinh lợi, tính ổn định, rủi ro và khả năng của thị trường để đưa ra các hướng đầu tư khác.
Chủ thể đầu tư có thể rất đa dạng về thành phần và mục đích đầu tư, bao gồm các cá nhân, các nhà đầu tư có tổ chức. Các nhà đầu tư cá nhân thường là các hộ gia đình, những người có vốn tiết kiệm hay tích luỹ được, thay vì gửi tiền nhàn rỗi vào các ngân hàng, họ đi mua trái phiếu để hy vọng nhận được tiền lãi và các khoản chênh lệch giá khi bán trái phiếu đi. Còn đối với những nhà đầu tư có tổ chức bao gồm quỹ đầu tư, quỹ hưu trí, công ty bảo hiểm, ngân hàng… là các tổ chức có kiến thức chuyên sâu về chứng khoán. Họ sử dụng số tiền huy động được từ dân chúng để đầu tư vào trái phiếu nhằm thu lợi nhuận.
1.2.3.3. Các tổ chức tài chính trung gian
Không giống như thị trường hàng hóa thông thường - nơi hoạt động mua bán thường diễn ra trực tiếp, thị trường trái phiếu đòi hỏi phải có các tổ chức tài chính trung gian - những tổ chức đứng giữa người mua và bán trái phiếu.
Tổ chức bảo lãnh phát hành: Là tổ chức đứng ra giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước và sau khi chào bán trái phiếu như chuẩn bị hồ sơ xin phép phát hành, phân phối và định giá trái phiếu. Thông thường để phát hành
trái phiếu, tổ chức phát hành cần có sự bảo lãnh của một hoặc một số tổ chức bảo lãnh phát hành. Tuỳ theo từng nước, các tổ chức bảo lãnh phát hành thường là các công ty chứng khoán, các ngân hàng đầu tư, các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính. Nếu tổ chức phát hành là công ty nhỏ, khối lượng phát hành không lớn, thì chỉ cần có một tổ chức bảo lãnh phát hành. Nếu đó là một công ty lớn, khối lượng trái phiếu phát hành vượt quá khả năng của một tổ chức bảo lãnh thì cần có một tổ hợp bảo lãnh phát hành bao gồm một hoặc một số tổ chức bảo lãnh phát hành chính và các tổ chức bảo lãnh phát hành thành viên.
Các tổ chức bảo lãnh phát hành được hưởng phí bảo lãnh hoặc một tỷ lệ hoa hồng nhất định trên số tiền thu được từ đợt phát hành. Phí bảo lãnh hay hoa hồng bảo lãnh cao hay thấp tùy thuộc vào hình thức bảo lãnh, mức độ rủi ro và tính chất của đợt phát hành lớn hay nhỏ, thuận lợi hay khó khăn.
Tổ chức định mức tín nhiệm: Đây là một tổ chức được hình thành nhằm mục đích đánh giá “mức độ tín nhiệm“ của các tổ chức phát hành và xếp hạng chúng theo khả năng thanh toán gốc và lãi trái phiếu để các nhà đầu tư có những thông tin cần thiết, từ đó họ đưa ra các quyết định đầu tư.
Đại diện người sở hữu trái phiếu: Là một tổ chức rất quan trọng khi phát hành trái phiếu. Tổ chức này thay mặt những người sở hữu trái phiếu thực hiện việc chuyển nhượng, sang tên, nhận trái tức, giám sát các cam kết của chủ thể phát hành.
Các tổ chức kinh doanh trái phiếu: Các tổ chức kinh doanh trái phiếu bao gồm các công ty chứng khoán, các tổ chức khác được phép kinh doanh theo quy định của pháp luật. Các tổ chức này chủ yếu thực hiện trên thị trường thứ cấp, có chức năng làm trung gian môi giới cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu mua bán trái phiếu để hưởng phí môi giới và thực hiện các giao dịch mua bán trái phiếu cho chính mình để kiếm lời. Các tổ chức kinh doanh trái phiếu còn cung cấp cho khách hàng các dịch vụ khác như tư vấn đầu tư hay các dịch
vụ khác có liên quan đến hoạt động giao dịch trái phiếu. Các tổ chức kinh doanh trái phiếu có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo tính thanh khoản của trái phiếu trên thị trường [6; trang 62-68].
1.2.4. Các hình thức giao dịch trái phiếu
1.2.4.1. Giao dịch trái phiếu trên thị trường tập trung
Trái phiếu được giao dịch trên thị trường tập trung thì có thể chuyển sang tiền mặt một cách dễ dàng. Trên thị trường tập trung, kết quả yết giá và giao dịch được công bố trên hệ thống máy tính, hệ thống này được kết nối với các thành viên và các tổ chức đầu tư, đồng thời được công bố ra công chúng.
Một số chức năng chính của thị trường tập là lập đường cong lãi suất và hạn chế phân đoạn thị trường. Ngoài ra, nó còn tạo ra chuẩn mực phát hành - là đưa ra các chỉ dẫn đáng tin cậy về lãi suất thị trường trong khoảng thời gian đáo hạn nhất định, tạo thuận lợi cho việc phát hành các công cụ nợ bằng cách có chỉ dẫn về định giá trái phiếu mới phát hành, chuẩn mực phát hành của trái phiếu có thời gian đáo hạn khác nhau còn tạo ra đường cong lãi suất. Cuối cùng việc tạo ra tỷ lệ lãi suất lành mạnh và đường cong lãi suất yêu cầu có thời gian đáo hạn khác nhau, chú trọng vào thị trường giao dịch giữa các tổ chức đầu tư và hệ thống yết giá đáng tin cậy. Bằng việc sử dụng các tỷ lệ lãi suất hình thành trên thị trường chứng khoán tập trung, người phát hành có thể quyết định tỷ lệ lãi suất khi phát hành. Điều này đảm bảo số lượng và tính thanh khoản của trái phiếu trên thị trường thứ cấp [15; trang 26-27].
Do TTTP tập trung cung cấp đường cong lãi suất cho nhà đầu tư nên nhà đầu tư có thể đánh giá những biến động tương lai của lãi suất. Do đó có thể hạn chế hay ít nhất là tối thiểu hóa các ảnh hưởng do sự thay đổi lãi suất. Khi lệnh của nhà đầu tư được tập hợp lại trên thị trường chứng khoán tập trung và giá trái phiếu được lập theo phương pháp cạnh tranh, các nhà đầu tư nhỏ sẽ được bảo vệ, công chúng có thể tin cậy vào tỷ lệ lãi suất.
Cũng như các mặt hàng khác, giá của một trái phiếu khi đem ra thị trường tập trung sẽ phụ thuộc vào biến động giá trên thị trường trái phiếu tại thời điểm bán, tức là phụ thuộc vào biến động giá trên thị trường trái phiếu vào thời điểm đó. Nguyên tắc định giá trái phiếu trên thị trường cũng dựa vào lãi suất chiết khấu. Tuy nhiên, còn một số yếu tố khác cũng có thể gây ảnh hưởng đến lãi suất đó là:
Trong quá trình trái phiếu đang lưu thông trên thị trường tập trung, do độ rủi ro của công ty phát hành thay đổi nên lãi suất chiết khấu cũng thay đổi.
Do lãi suất thị trường nói chung biến động nên lãi suất chiết khấu của các loại trái phiếu cũng biến động theo.
Nếu không có sự thay đổi của lãi suất chiết khấu thì giá trái phiếu cũng thay đổi theo thời gian, trừ trường hợp là trái phiếu bán theo mệnh giá. Với loại trái phiếu bán theo mệnh giá thì lãi suất chiết khấu sẽ bằng lãi suất coupon, trong quá trình trái phiếu bán đến thời gian đáo hạn nếu lãi suất chiết khấu bằng lãi suất coupon thì giá vẫn tiếp tục bằng mệnh giá. Tuy nhiên, đối với trái phiếu bán theo giá cao hơn hoặc thấp hơn mệnh giá thì giá trái phiếu sẽ biến động theo thời gian mặc dù lãi suất chiết khấu không thay đổi. Càng gần đến thời điểm đáo hạn, giá trái phiếu chiết khấu càng tăng còn giá của trái phiếu bán cao hơn mệnh giá càng giảm. Tới lúc đáo hạn, giá của hai trái phiếu tiến đến mệnh giá.
1.2.4.2. Giao dịch trái phiếu trên thị trường phi tập trung
Có thể nói, giao dịch trái phiếu trên thị trường phi tập trung (OTC) quan trọng không kém gì giao dịch trên thị trường tập trung. Các lý do để giao dịch trên thị trường OTC là:
Thứ nhất: Do tính chất của trái phiếu có đối tượng nắm giữ chủ yếu là các trung gian tài, các nhà đầu tư lớn.
Thứ hai: Khối lượng giao dịch trái phiếu là lớn
Các nhà môi giới, giao dịch có thể mua bán trái phiếu với tư cách là nhà môi giới của khách hàng (đại lý) hoặc nhà giao dịch (cho chính mình). Nhà môi giới, giao dịch khi nhận được lệnh của khách hàng hoặc khi giao dịch cho khách hàng của công ty môi giới, trở thành nhà tạo lập thị trường và đặt mức giá hiện tại cho tất cả các chứng khoán OTC dưới hình thức của nhiều nguồn thông tin.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường trái phiếu
TTTP là thị trường đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Việc phát hành trái phiếu có thành công hay không là phụ thuộc vào các nhân tố sau:
1.3.1. Sự ổn định về kinh tế, chính trị
Sự ổn về kinh tế chính trị là nhân tố quyết định khi đưa ra những chiến lược cũng như các chính sách phát triển hệ thống tài chính tiền tệ của nền kinh tế. Chỉ có sự ổn định về kinh tế, chính trị thì chủ thể phát hành mới có thể hoạch định được kế hoạch đầu tư dài hạn. Từ đó mới có thể phát hành trái phiếu ra thị trường để huy động vốn.
Đối với các chủ đầu tư, khi nào môi trường kinh tế ổn định thì họ mới yên tâm quyết định đầu tư dài hạn. Chính vì vậy nếu nền kinh tế có nhiều biến động sẽ ảnh hường lớn đến thị trường trái phiếu.
Mặt khác, Chính phủ có chủ trương phát hành TPCP vì nó là loại hàng hoá chủ yếu trên thị trường chứng khoán thời kỳ đầu. Ngân hàng Nhà nước sẽ điều tiết mua bán trái phiếu kho bạc, thúc đẩy TTTP phát triển. Thị trường trái phiếu sơ cấp chính là thị trường tạo ra lãi suất chuẩn, đồng thời tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh trái phiếu hình thành và phát triển. Hơn nữa, việc mua bán TPCP một cách đều đặn sẽ nâng cao tính thanh khoản của các trái phiếu.
Nền kinh tế cần có một chính sách tài chính, tiền tệ lành mạnh và ổn định. Bên cạnh đó cần có chính sách giữ vững giá trị của đồng tiền để tạo