1.1.4.6. Dự kiến về lạm phát
Nếu lạm phát dự kiến có khả năng tăng thì lãi cố định thanh toán cho trái phiếu là lãi suất danh nghĩa và như vậy sẽ kém hấp dẫn hơn so với các tài sản khác có khả năng loại trừ yếu tố lạm phát. Do đó, giá của trái phiếu có lãi suất cố định sẽ giảm. Và ngược lại, nếu dự kiến lạm phát giảm thì giá của trái phiếu có lãi suất định định sẽ tăng [15; trang 12].
1.1.5. Rủi ro trong đầu tư trái phiếu
Tất cả các khoản đầu tư luôn tồn tại những rủi ro nhất định. Đầu tư chứng khoán nói chung và đầu tư trái phiếu nói riêng, có thể gặp một số rủi ro như: rủi ro lãi suất, rủi ro do lạm phát gây ra, rủi ro tài chính và rủi ro thanh khoản… Yêu cầu đối với nhà đầu tư là giảm thiểu rủi ro cũng như thiết lập danh mục đầu tư tối ưu, còn đối với nhà phát hành và nhà quản lý cần đưa ra các biện pháp hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư và tăng tính hấp dẫn của trái phiếu. Do đó, việc nhận diện các rủi ro trong đầu tư trái phiếu rất cần thiết.
1.1.5.1. Rủi ro lãi suất
Lãi suất là yếu tố thường xuyên liên tục biến động, phản ánh những thay đổi về tương quan cung cầu vốn tiền tệ, cung cấp vốn tiền tệ, cung cấp tín dụng trên thị trường tài chính. Cũng từ đó dẫn đến những thay đổi liên tục về tỷ suất sinh lời cần thiết của trái phiếu. Giá của một trái phiếu sẽ thay đổi theo hướng ngược lại với lãi suất thị trường. Khi lãi suất tăng làm cho trái phiếu cũ với mức lãi suất thấp hơn nên kém hấp dẫn hơn, giá trái phiếu sẽ giảm, trái phiếu có thời gian đáo hạn càng dài thì mức giảm giá càng lớn. Ngược lại khi lãi suất giảm thì giá trái phiếu tăng. Rủi ro lãi suất là rủi ro chính mà nhà đầu tư phải gánh chịu khi đầu tư trái phiếu.
Các loại trái phiếu đều tiềm ẩn rủi ro lãi suất. Ví dụ, khi Chính phủ thâm hụt ngân sách sẽ huy động vốn bằng cách phát hành thêm trái phiếu, khi đó Chính phủ muốn huy động được vốn thì phải tăng lãi suất trái phiếu, còn đối với các nhà đầu tư chỉ mua khi lãi suất trái phiếu mới phát hành cao hơn lãi
suất các trái phiếu đang lưu hành, do đó những người đang nắm giữ trái phiếu sẽ bị thiệt hại do giá trái phiếu giảm. Lãi suất trái phiếu Chính phủ tăng sẽ dẫn đến hệ quả, các nhà đầu tư thay vì mua trái phiếu doanh sẽ chuyển sang mua trái phiếu Chính phủ, do đó lãi suất trái phiếu doanh nghiệp cũng phải tăng lên.
Có thể bạn quan tâm!
- Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển - 1
- Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển - 2
- Giao Dịch Trái Phiếu Trên Thị Trường Phi Tập Trung
- Sự Cần Thiết Của Việc Xây Dựng Hệ Thống Định Mức Tín Nhiệm
- Tình Hình Hoạt Động Của Thị Trường Trái Phiếu Việt Nam
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
1.1.5.2. Rủi ro tái đầu tư
Khoản thu nhập bổ sung từ việc tái đầu tư của trái phiếu còn gọi là lãi của lãi, phụ thuộc vào mức lãi suất hiện hành vào thời điểm tái đầu tư, cũng như vào chiến lược tái đầu tư. Sự thay đổi của lãi suất tái đầu tư của một chiến lược xác định do sự thay đổi của lãi suất thị trường, từ đó dẫn tới tính không chắc chắn của lợi tức dự kiến nhận được từ trái phiếu, rủi ro này được gọi là rủi ro tái đầu tư - là rủi ro khi lãi suất để tái đầu tư các dòng tiền giữa kỳ bị giảm xuống. Rủi ro lãi suất và rủi ro tái đầu tư có những hiệu ứng triệt tiêu nhau. Rủi ro lãi suất là rủi ro lãi suất tăng làm giảm giá trái phiếu, còn rủi ro đầu tư là rủi ro lãi suất giảm.
1.1.5.3. Rủi ro thanh toán
Rủi ro thanh toán còn gọi là rủi ro tín dụng, là rủi ro mà người phát hành một trái phiếu có thể vỡ nợ, tức là mất khả năng thanh toán đúng hạn các khoản lãi và gốc của đợt phát hành. Trái phiếu chính phủ được coi là không có rủi ro thanh toán. Trái phiếu doanh nghiệp khác nhau sẽ có mức độ rủi ro khác nhau. Rủi ro thanh toán được xác định bằng mức xếp hạng tín dụng do các công ty định mức tín nhiệm ấn định căn cứ vào khả năng thu nhập, khả năng thanh toán, trình độ quản lý.
1.1.5.4. Rủi ro lạm phát
Lạm phát gây nên sự thay đổi giá trị, sức mua của tiền tệ, từ đó gây nên những thiệt hại nhất định cho các nhà đầu tư trái phiếu. Lạm phát càng cao, lãi suất thực của trái phiếu càng giảm, do vậy làm mất giá trị của trái phiếu. Trái phiếu Chính phủ được coi là an toàn nhất (theo nghĩa là không có khả
năng không được thanh toán) nhưng vẫn có rủi ro lạm phát. Ngay cả trái phiếu có lãi suất thả nổi vẫn có thể phải gánh chịu rủi ro lạm phát nếu lãi suất không phản ánh hết lạm phát. Lạm phát càng cao thì rủi ro đầu tư trái phiếu càng cao. Trong bối cảnh lạm phát cao để đảm bảo lãi suất thực dương thì lợi suất trái phiếu phải tăng.
1.1.5.5. Rủi ro tỷ giá hối đoái
Rủi ro tỷ giá là rủi ro thường xảy ra trong hoạt động mua bán quốc tế. Rủi ro này xảy ra khi tỷ giá của đồng tiền thanh toán có sự thay đổi giữa thời điểm ký hợp đồng và thời điểm thanh toán thật. Trong đầu tư chứng khoán rủi ro tỷ giá là rủi ro đối với các chứng khoán phát hành bằng ngoại tệ hoặc rủi ro đối với nhà đầu tư nước ngoài khi mua chứng khoán của một nước khác. Ví dụ nếu nhà đầu tư nước ngoài mua trái phiếu Việt Nam nhưng được thanh toán bằng tiền đồng thì khi đồng Việt Nam giảm giá so với đôla Mỹ, nhà đầu tư sẽ bị thiệt và họ sẽ có lợi trong trường hợp đồng Việt Nam tăng giá so với đôla Mỹ.
1.1.5.6. Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là rủi ro về khả năng chuyển đổi trái phiếu thành tiền mặt trên thị trường, bao gồm cả yếu tố thời gian và giá cả chuyển đổi. Để tăng tính thanh khoản cho trái phiếu, nhà đầu tư buộc phải tăng mức chiết khấu trái phiếu do đó giá trái phiếu bị đẩy xuống, lúc này nhà đầu tư đã phải gánh chịu thiệt hại về giá trị. Khoản thiệt hại này sẽ lớn, khi thị trường thiếu tính thanh khoản và đặc biệt là trong điều kiện chưa có đội ngũ tạo lập thị trường làm cho nhà đầu tư khó tìm được người mua trái phiếu và khó có thể bán được với mức giá tốt nhất [12; trang 168-170].
1.2. Tổng quan về thị trường trái phiếu
1.2.1. Khái niệm về thị trường trái phiếu
Thị trường trái phiếu là thị trường phát hành và giao dịch các loại trái phiếu theo quy định của pháp luật. Vì là một bộ phận của thị trường chứng khoán nên thị trường trái phiếu cũng có hai thị trường chính:
Thị trường sơ cấp: Là nơi phát hành lần đầu trái phiếu ra công chúng, tạo vốn cho đơn vị phát hành và chỉ tạo ra phương tiện huy động vốn. Tại thị trường này, giá cả của trái phiếu là giá phát hành. Việc mua bán trái phiếu trên thị trường sơ cấp làm tăng vốn cho nhà phát hành. Thông qua vìệc bán trái phiếu, Chính phủ có thêm nguồn vốn để tài trợ cho các dự án đầu tư hoặc chi tiêu của Chính phủ, các doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường nhằm tài trợ cho các dự án đầu tư.
Trái phiếu sẽ được phát hành trên thị trường sơ cấp qua nhiều phương thức khác nhau như bảo lãnh phát hành, đấu thầu… Nguồn cung cấp chủ yếu cho thị trường này là tiết kiệm của công chúng, của một số tổ chức tài chính và phi tài chính. Vai trò của thị trường sơ cấp là tạo hàng hóa cho thị trường giao dịch và làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế [5; trang 115-118].
Thị trường thứ cấp: Là thị trường giao dịch, mua bán, trao đổi các loại trái phiếu đã được phát hành nhằm mục đích kiếm lời, di chuyển vốn đầu tư hay di chuyển tài sản xã hội. Trên thị trường thứ cấp các nhà bảo lãnh phát hành và các nhà giao dịch trên thị trường sơ cấp không còn đóng vai trò chào bán chứng khoán. Thay vào đó, các trái phiếu được mua bán giữa các nhà đầu tư và tổ chức đầu tư thông qua các nhà môi giới và kinh doanh chứng khoán.
Sự tồn tại của một thị trường thứ cấp năng động sẽ có tác dụng làm cho trái phiếu có tính thanh khoản cao. Như vậy, trái phiếu sẽ trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư và giảm chi phí vốn cho Chính phủ và các doanh nghiệp [5; trang 165-166].
Thị trường trái phiếu sơ cấp và thị trường thứ cấp có những đặc điểm khác nhau cơ bản về nội dung, mục đích hoạt động và tính chất thị trường. Ở thị trường sơ cấp nguồn vốn tiết kiệm được thu hút vào công cuộc đầu tư phát triển kinh tế và vốn mới thật sự vận động từ người tiết kiệm sang người đầu tư. Còn ở thị trường thứ cấp, việc huy động không làm tăng quy mô đầu tư vốn, không thu hút thêm được nguồn tài chính mới mà chỉ có tác dụng phân phối lại quyền sở hữu chứng khoán từ chủ thể này sang chủ thể khác, đảm bảo tính thanh khoản của chứng khoán, không có tác dụng trực tiếp tới việc tích tụ và tập trung vốn.
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ mật thiết với nhau, không thể tách rời nhau, là hai bộ phận cấu thành nên một thị trường, trong đó thị trường sơ cấp là cơ sở, là tiền đề và thị trường thứ cấp là động lực. Nếu không có thị trường sơ cấp, trái phiếu không được phát hành thì không thể có thị trường thứ cấp. Ngược lại, nếu không có thị trường thứ cấp, tức là trái phiếu không được dễ dàng mua đi bán lại thì thị trường sơ cấp không thể phát triển được. Chính vì vậy, để thị trường trái phiếu hoạt động hiệu quả cần phải có sự hoạt động của cả hai loại thị trường nói trên.
1.2.2. Vai trò của thị trường trái phiếu
Thị trường trái phiếu (TTTP) là nơi giao dịch mua bán các loại trái phiếu đã phát hành, các loại trái phiếu này do Chính phủ hoặc Chính quyền địa phương và các công ty phát hành. TTTP đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế, đối với các doanh nghiệp cũng như các nhà đầu tư.
1.2.2.1. Đối với nền kinh tế
Thị trường trái phiếu là kênh huy động vốn nhanh chóng và hiệu quả. Thị trường trái phiếu là một bộ phận của thị trường vốn dài hạn, thực hiện chức năng của thị trường tài chính là cung cấp nguồn vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế. Đây là thị trường có khả năng huy động các nguồn vốn phân tán, tạm thời nhàn rỗi trong toàn xã hội vào công cuộc đầu tư.
Đối với Nhà nước/Chính Phủ, toàn bộ các khoản chi tiêu khổng lồ đều trông chờ vào các khoản thu của ngân sách (trong đó chủ yếu là nguồn thu từ thuế), nhưng ngân sách không đủ chi, ngân sách Nhà nước luôn đứng trước nguy cơ thâm hụt. Chính phủ rất cần nguồn tài chính để giải quyết nhu cầu vốn cho các dự án đầu tư và bù đắp thiếu hụt ngân sách quốc gia. Tài trợ bằng cách in tiền rất dễ triển khai nhưng thường để lại hậu quả khó lường cả trước mắt lẫn lâu dài, cả cho mọi thành phần kinh tế, dân cư và Chính phủ. Vì vậy Chính phủ phải huy động vốn thông qua việc phát hành trái phiếu. Tùy theo mục đích sử dụng, Chính phủ có thể phát hành trái phiếu nội tệ hay ngoại tệ và với các kỳ hạn khác nhau [15; trang 13].
Thị trường trái phiếu Chính phủ phát triển giúp Chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ. Trên thị trường vốn, trái phiếu là một hàng hóa quan trọng, đặc biệt là trái phiếu Chính phủ với đặc tính ít rủi ro nhất đã trở thành hàng hóa chủ đạo trên thị trường, góp phần hình thành lãi suất trên thị trường.
Trái phiếu do Chính phủ phát hành thu hút một khối lượng vốn tiền mặt trong lưu thông từ các tầng lớp dân cư, tổ chức kinh tế và định chế tài chính trung gian. Vốn này được đưa vào sử dụng cho nhu cầu đầu tư phát triển, tạo ra của cải hàng hóa cho xã hội. Nhờ vậy, mà cân đối tiền hàng được điều chỉnh tích cực, tăng tốc độ vòng quay vốn, giảm áp lực cầu tiền mặt của nền kinh tế, ổn định môi trường tiền tệ, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính trong nước.
Ngân hàng trung ương (NHTW) theo sự ủy quyền của Bộ Tài chính thường phát hành loại trái phiếu ngắn hạn để thực hiện nghiệp vụ thị trường mở. Khi NHTW cần rút bớt khối lượng tiền tệ trong lưu thông về thì NHTW bán tín phiếu ra, ngược lại khi cần thiết phải đưa tiền vào lưu thông thì NHTW mua tín phiếu về. Mục đích góp phần thực hiện chính sách tài chính quốc gia khắc phục tình hình lạm phát, bảo đảm được khối lượng tiền tệ trong lưu thông một cách hợp lý [15; trang 63-64].
Thị trường trái phiếu phát triển làm cho thị trường vốn hoàn thiện và đa dạng hơn. TTTP có quy mô và độ sâu để hỗ trợ tốt hơn nhu cầu vốn đầu tư dài hạn trong nền kinh tế, góp phần tạo ra một cấu trúc thị trường vững chắc mà nó dựa trên cơ sở cân đối giữa thị trường vay nợ ngân hàng, TTTP và thị trường cổ phiếu trong tương lai. TTTP thúc đẩy sự phát triển bền vững, ổn định của thị trường vốn [15; trang 65].
Huy động vốn qua loại hình trái phiếu sẽ làm giảm sự tập trung vào hệ thống ngân hàng. Đặc biệt là TPDN vừa có thể huy động được nguồn vốn dồi dào từ xã hội vừa góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế xã hội. Nếu trước đây doanh nghiệp chỉ có nguồn vay duy nhất từ ngân hàng, với sự tồn tại và phát triển hoạt động của thị trường TPDN đã tạo thêm cho các doanh nghiệp nguồn cung tín dụng hữu hiệu. Gánh nặng và rủi ro cho vay của các ngân hàng được san sẻ cho các nhà đầu tư trái phiếu trên thị trường [15; trang 27]. Như vậy, thị trường TPDN có thể đa dạng hóa nhiều rủi ro hơn hình thức tài trợ qua ngân hàng, nhờ đó việc tài trợ dài hạn cho các dự án rủi ro cao có thể thực hiện được. Còn giúp làm giảm chi phí vốn cho nền kinh tế.
Phát triển TTTP sẽ làm giảm sự sự huy động qua hệ thống ngân hàng, điều này tạo sự cân xứng trong kỳ hạn huy động vốn và cho vay vốn của ngân hàng, làm giảm nhẹ các “sai lệch kép” và do đó hạ thấp nguy cơ nền kinh tế đối mặt với khủng khoảng về cán cân vốn như tình hình ở các nước Châu Á trong cuộc khủng hoảng tài chính 1997-1998.
Thị trường trái phiếu giúp Chính phủ thực thi có hiệu quả chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế-xã hội. Đối với Chính phủ, một trong những chức năng nhiệm vụ quan trọng là quản lý vĩ mô nền kinh tế đảm bảo vai trò của “người trọng tài” tạo môi trường bình đẳng, thuận lợi cho toàn bộ nền kinh tế - xã hội phát triển bền vững. Thông qua phát hành trái phiếu và đầu tư bằng vốn trái phiếu Chính phủ góp phần nâng cao hiệu quả của việc phân
phối và tái phân phối nguồn lực tài chính, định hướng hoạt động đầu tư trong nền kinh tế [15; trang 66].
1.1.2.2. Đối với doanh nghiệp
Mọi doanh nghiệp đều có nhu cầu to lớn về vốn để vận hành và phát triển. Đối với doanh nghiệp, thường có ba cách để huy động vốn: vay ngân hàng, phát hành trái phiếu và phát hành cổ phiếu. Đối với từng phương thức huy động vốn đều có những thế mạnh riêng, tùy theo tình hình cụ thể của nền kinh tế và của doanh nghiệp, để từ đó doanh nghiệp đưa ra quyết định phương thức tài trợ tối ưu nhất. Tuy nhiên, các doanh nghiệp ở Việt Nam thường huy động bằng cách vay ngân hàng hoặc phát hành cổ phiếu hơn là phát hành trái. Phát hành trái phiếu với các ưu điểm:
- Thứ nhất, phát hành trái phiếu đảm bảo cho doanh nghiệp được sử dụng một nguồn vốn ổn định và dài hạn, trong khi vay ngân hàng thường là ngắn hạn hơn. Mặc dù trong một số dự án đặc biệt, ngân hàng thương mại cũng có thể cho doanh nghiệp vay với thời hạn dài hơn, nhưng với các dự án lớn ngân hàng lại bị giới hạn đầu tư. Cụ thể, khi doanh nghiệp tài trợ vốn bằng phát hành trái phiếu không bị hạn chế về quy mô miễn là doanh nghiệp có phương án sử dụng số vốn huy động một cách hợp lý, có tính khả thi và có khả năng hoàn trả lãi và gốc cho những người đi vay. Trái lại, phương thức vay ngân hàng, số vốn tối đa doanh nghiệp được vay lại phụ thuộc vào vốn tự có của ngân hàng cho vay, nếu số vốn doanh nghiệp cần huy động quá lớn, việc cho vay phải được tiến hành qua phương thức đồng tài trợ phức tạp hơn nhiều. Mặt khác, doanh nghiệp phát hành trái phiếu còn có ưu điểm về thời hạn vay hơn các khoản vay ngân hàng, các doanh nghiệp hoàn toàn tự do trong việc xác định thời hạn vay. Nếu các doanh nghiệp chú tâm đến kênh huy động vốn này thì sẽ có lợi thế lớn cho các doanh nghiệp trong nước đủ sức cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài trong tương lai.