- Địa điểm mở L/C. Đó là nơi ngân hàng mở L/C lập bản cam kết thanh toán tiền cho nhà xuất khẩu. Địa điểm này có ý nghĩa quan trọng trong vấn đề chọn luật áp dụng, mỗi khi có tranh chấp xẩy ra giữa các bên có liên quan đến thư tín dụng. Thông thường, nếu trong thư tín dụng không xác định rõ nơi mở thư tín dụng thì theo tập quán giao dịch, địa điểm mở thư tín dụng được xác định là địa chỉ nơi ngân hàng phát hành đặt trụ sở chính, hoặc trụ sở chi nhánh (nếu thư tín dụng được mở tại một chi nhánh cụ thể của ngân hàng).
- Ngày mở L/C. Đó là ngày mà người đại diện hợp pháp của ngân hàng phát hành thư tín dụng ký vào văn bản thư tín dụng để tạo lập một thư tín dụng theo đúng các quy tắc của tín dụng chứng từ, dựa trên sự tuân thủ Bản Quy tắc và thực hành tín dụng chứng từ (UCP500, UCP600). Trong thực tiễn, hầu hết các trường hợp ngày mở thư tín dụng chính là ngày mà sự cam kết thanh toán của ngân hàng đối với nhà xuất khẩu bắt đầu có hiệu lực, đồng thời cũng là ngày phát sinh hiệu lực của hợp đồng được thực hiện giữa ngân hàng mở thư tín dụng và nhà nhập khẩu. Tuy nhiên, về lý thuyết cũng có thể xảy ra trường hợp ngày mở thư tín dụng không trùng khớp với ngày phát sinh hiệu lực của thư tín dụng, nếu trong thư tín dụng có điều khoản ghi chú của ngân hàng phát hành về việc lùi thời hạn có hiệu lực của thư tín dụng vào một ngày nhất định sau ngày mở thư tín dụng. Đôi khi, ngày mở thư tín dụng cũng được coi là căn cứ để nhà xuất khẩu kiểm tra xem nhà nhập khẩu có mở L/C đúng như quy định trong hợp đồng mua bán hay không.
- Tên, địa chỉ của những người có liên quan đến L/C. Các chủ thể này bao gồm: người yêu cầu mở L/C; người thụ hưởng L/C; ngân hàng phát hành L/C; ngân hàng thông báo L/C và đôi khi là cả ngân hàng xác nhận L/C. Các chủ thể này phải được xác định rõ danh tính, địa chỉ và số hiệu tài khoản (nếu có) nhằm phòng ngừa và hạn chế các tranh chấp có thể xảy ra trong quá trình thực hiện thư tín dụng.
- Trị giá của L/C. Đó là số tiền được ghi bằng chữ và ghi bằng số, thể
hiện giá trị nghĩa vụ tài sản của ngân hàng phát hành đối với người thụ hưởng. Trị giá được ghi bằng chữ và trị giá được ghi bằng số trong L/C phải thống nhất với nhau và trong trường hợp có sự không thống nhất thì có thể coi số tiền ghi bằng chữ là có giá trị. Ngoài ra, tên của đơn vị tiền tệ phải ghi rõ ràng, đầy đủ, chính xác theo quy định chung đã được thừa nhận trong giao dịch thanh toán quốc tế và tránh sự hiểu nhầm hay sự giải thích không có lợi cho các bên.
- Thời hạn hiệu lực của L/C. Đây là thời hạn mà ngân hàng phát hành cam kết sẽ trả tiền cho nhà xuất khẩu nếu nhà xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ thanh toán trong thời hạn đó và phù hợp với những quy định trong L/C. Thời hạn của L/C được tính từ ngày mở L/C đến ngày hết hiệu lực của L/C. Thời hạn hiệu lực của L/C phải là một khoảng thời gian hiệu lực hợp lí để tạo thuận lợi cho quá trình thực hiện hợp đồng cũng như không gây khó khăn cho việc xuất trình bộ chứng từ thanh toán từ phía nhà xuất khẩu/người thụ hưởng.
- Thời hạn thanh toán của L/C. Thời hạn này liên quan đến việc trả tiền ngay hay trả chậm. Điều khoản này hoàn toàn phụ thuộc vào quy định trong hợp đồng ngoại thương, trong đó các bên mua và bán có thể xác định rõ việc thanh toán bằng thư tín dụng trả ngay hay thanh toán bằng thư tín dụng trả chậm.
- Thời hạn giao hàng. Thời hạn này sẽ do hợp đồng mua bán quy định và phải được ghi vào L/C như một điều kiện trả tiền đối với người thụ hưởng. Trong trường hợp các bên tham gia hợp đồng mua bán có thỏa thuận về việc kéo dài thời hạn giao hàng mà không đề cập đến việc kéo dài thời hạn có hiệu lực của thư tín dụng thì mặc nhiên được coi là thư tín dụng cũng được kéo dài thêm thời hạn tương ứng. Ngược lại, nếu các bên thỏa thuận kéo dài thời hạn có hiệu lực của thư tín dụng nhưng lại không thỏa thuận về việc kéo dài thời
hạn giao hàng thì không được phép hiểu rằng thời gian giao hàng cũng được kéo dài tương ứng.
- Điều khoản về những nội dung liên quan đến hàng hóa như tên hàng hóa, số lượng, trọng lượng, giá cả, quy cách, phẩm chất, bao bì, kí mã hiệu đều được ghi đầy đủ vào L/C.
Có thể bạn quan tâm!
- Các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thanh toán bằng thư tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - 1
- Các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thanh toán bằng thư tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - 2
- Quy Trình Thực Hiện Dịch Vụ Thanh Toán Bằng Thư Tín Dụng
- Mối Tương Quan Về Hiệu Lực Giữa Pháp Luật Quốc Gia Và Pháp Luật Quốc Tế Trong Thanh Toán Bằng Thư Tín Dụng
- Nội Dung Điều Chỉnh Của Pháp Luật Về Thanh Toán Bằng Thư Tín Dụng
Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.
- Điều khoản về những nội dung liên quan đến vận tải, giao nhận hàng hóa như điều kiện giao hàng (FOB, CIF, CFR…), nơi bốc hàng, dỡ hàng, nơi gửi, nơi giao hàng, hình thức vận chuyển… cũng được ghi vào L/C.
- Điều khoản xác định Bộ chứng từ mà nhà xuất khẩu phải xuất trình để yêu cầu thanh toán. Đây là nội dung rất quan trọng của L/C, vì bộ chứng từ là bằng chứng chứng minh nhà xuất khẩu đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng đúng như L/C đã quy định. Nếu bộ chứng từ phù hợp với L/C thì ngân hàng phát hành sẽ thanh toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu và ngược lại, ngân hàng phát hành L/C có thể từ chối thanh toán. Bộ chứng từ do L/C quy định ít hay nhiều, tùy theo tính chất hàng hóa và sự thỏa thuận giữa hai bên mua và bán. Trong thanh toán quốc tế, ngân hàng thực hiện thanh toán dựa trên cơ sở chứng từ chứ không dựa vào hàng hóa. Thông thường, ngân hàng mở L/C đòi hỏi nhà xuất khẩu phải thỏa mãn những đặc điểm sau đây khi xuất trình bộ chứng từ:
+ Các loại chứng từ đã được thỏa thuận trong hợp đồng mua bán giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu.
+ Số lượng của từng loại chứng từ.
+ Thủ tục kí phát của từng loại chứng từ.
- Sự cam kết trả tiền của ngân hàng mở L/C. Đây là một trong số các nội dung quan trọng nhất của L/C. Điều khoản này ràng buộc trách nhiệm của ngân hàng mở L/C phải thanh toán tiền cho nhà xuất khẩu nếu nhà xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ phù hợp với những quy định của L/C. Thực tiễn cho
thấy nếu điều khoản này không được quy định rõ ràng, rất có thể sẽ dẫn đến tranh chấp giữa các bên và gây khó khăn cho Tòa án hay Trọng tài trong quá trình giải quyết tranh chấp.
- Điều khoản ghi nhận quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan. Trong thực tế, các loại L/C khác nhau đều mang những tính chất và nội dung khác nhau. Vì thế, việc quy định về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên liên quan trong một thư tín dụng cũng có thể khác nhau.
- Những điều khoản đặc biệt khác.
Ngoài những nội dung kể trên, ngân hàng mở L/C và nhà nhập khẩu có thể thỏa thuận đưa thêm vào thư tín dụng một số nội dung khác như có thể hoàn trả tiền bằng điện chuyển tiền hoặc thư điện tử…
- Chữ kí của ngân hàng mở L/C. Do thư tín dụng thực chất là một khế ước hay hợp đồng dân sự nên người kí vào thư tín dụng cũng phải là người có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi theo quy định của pháp luật dân sự. Thông thường, người ký tên vào thư tín dụng chính là người đại diện hợp pháp của ngân hàng phát hành, bao gồm người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền.
1.1.1.5. Phân loại Thư tín dụng
Và tùy theo từng chức năng mà L/C được chia thành nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên có 5 dạng L/C chính mà được sử dụng phổ biến nhất tại Agribank:
- L/C không thể hủy ngang (Irrevocable letter of credit): Là loại L/C sau khi đã được bên ngân hàng mở thì không thể sửa đổi, bổ sung hay hủy bỏ trong thời hạn hiệu lực của nó nếu chưa có sự thỏa thuận của các bên tham gia. Loại L/C này có ưu thế là đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia.
- L/C xác nhận (Confirming L/C): Là loại thư tín dụng không thể hủy ngang, được một ngân hàng khác xác nhận, điều đó có nghĩa là ngoài cam kết
thanh toán của ngân hàng phát hành L/C còn có thêm sự cam kết thanh toán của ngân hàng xác nhận.
- L/C trả chậm (L/C available by deffered payment): Là loại L/C trong đó ngân hàng phát hành cam kết thanh toán cho người hưởng lợi số tiền của thư tín dụng, một số ngày sau khi bộ chứng từ hoàn hảo được xuất trình hoặc sau ngày giao hàng.
- L/C chuyển nhượng (Tranferable L/C): Là một L/C mà người hưởng đầu tiên có thể yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần giá trị L/C gốc cho một hoặc nhiều người hưởng lợi thứ hai. Mục đích của loại L/C này nhằm giúp cho nhà nhập khẩu tiến hành dịch vụ xuất khẩu mà không cần đến vốn của mình.
- L/C trả ngay (L/C payable by draft at sight): Là loại L/C không thể hủy ngang và phải thanh toán ngay khi hối phiếu được xuất trình. Rủi ro trong loại thư tín dụng này là thường phải thanh toán trước khi nhận hàng, vì hối phiếu và bộ chứng từ thường đến trước khi hàng cập cảng.
- Thư tín dụng dự phòng (Standly Letter Of Credit): L/ C dự phòng là loại L/C được mở theo yêu cầu của nhà xuất khẩu, trong đó quy định nghĩa vụ của ngân hàng mở L/C cam kết sẽ thanh toán cho nhà nhập khẩu số tiền đã đặt cọc, tiền ứng trước… trong trường hợp nhà xuất khẩu không hoàn thành nghĩa vụ giao hàng mà L/C đã quy định, cũng như ngân hàng mở L/C sẽ bồi thường thiệt hại do mình gây ra cho nhà nhập khẩu. Loại thứ tín dụng này được áp dụng khá phổ biến tại một số nước như Mỹ, Nhật Bản… nhằm bảo đảm quyền lợi cho người mua hàng trước nguy cơ vi phạm hợp đồng của người bán.
- Thư tín dụng có tài khoản đỏ (Red Clause Letter Of Credit).
Đây là loại L/C mà ngân hàng phát hành cho phép ngân hàng thông báo ứng trước cho người thụ hưởng để mua hàng hoá, nguyên liệu sản xuất hàng
hóa theo L/C đã mở. Tiền ứng trước lấy từ tài khoản của người mở, nghĩa là tín dụng thương mại, mà không phải là tín dụng của ngân hàng thông báo cho ngân hàng phát hành. Ngân hàng thông báo chỉ thực hiện các thủ tục theo điều khoản của L/C mà không cam kết hoặc chịu trách nhiệm về số tiền đó. Việc ứng tiền được ngân hàng phát hành uỷ quyền cho ngân hàng thông báo thực hiện. Sau đó ngân hàng phát hành sẽ trích tài khoản của người mở chuyển cho ngân hàng thông báo. Tên gọi của L/C xuất phát từ việc trước đây được in bằng mực đỏ để tăng sự chú ý.
Với điều khoản đỏ, ngân hàng phát hành cam kết ứng trước một số tiền nhất định của L/C khi nhận được các chứng từ thông thường là:
+ Hối phiếu của số tiền ứng trước.
+ Hóa đơn.
+ Giấy nhận nợ hoặc cam kết giao hàng.
* Nếu căn cứ theo thời điểm thanh toán, thư tín dụng có thể được phân chia thành hai loại sau đây:
- Thư tín dụng trả ngay (at sight).
Đây là loại L/C không huỷ ngang mà ngân hàng phát hành L/C cam kết sẽ thanh toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu, ngay khi nhận được bộ chứng từ phù hợp với L/C trong thời hạn hiệu lực của thư tín dụng.
- Thư tín dụng trả chậm (usance L/C).
Đây là loại L/C không thể huỷ ngang được ngân hàng phát hành cam kết sẽ thanh toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu sau một thời gian nhất định đã được quy định trong L/C, nếu nhà xuất khẩu xuất trình đủ bộ chứng từ hợp lệ theo quy định của L/C và trong thời hạn hiệu lực của L/C.
1.1.2. Dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng (L/C)
1.1.2.1. Định nghĩa dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng
Thanh toán bằng L/C là hình thức thanh toán qua ngân hàng, theo đó
việc thanh toán được tiến hành từ một khoản tiền được bên mua lưu ký (ký quỹ) trước ở ngân hàng phục vụ mình để trả tiền cho bên bán theo các chứng từ được bên bán xuất trình về số lượng hàng hoá đã giao, dịch vụ đã cung ứng theo các điều kiện sử dụng L/C.
Đối với hình thức thanh toán bằng thư tín dụng, việc mở thư tín dụng là điều kiện bắt buộc để áp dụng hình thức thanh toán này. Trong giao dịch thương mại nội địa cũng như quốc tế, thanh toán bằng L/C thường được áp dụng khi bên bán hàng không tin tưởng vào khả năng trả nợ của bên mua, do vậy họ đòi hỏi bên mua phải có sự đảm bảo thanh toán bằng cách mở một thư tín dụng tại ngân hàng để chuẩn bị trả tiền cho mình, sau khi đã giao hàng theo hợp đồng đã ký. Do việc thanh toán bằng thư tín dụng luôn luôn gắn liền với cam kết thanh toán của một ngân hàng (gọi là ngân hàng phát hành L/C) nên hình thức này tỏ ra rất an toàn cho bên bán là người thụ hưởng.
1.1.2.2. Đặc điểm của dịch vụ thanh toán bằng thư tín dụng
Về lý thuyết, hình thức thanh toán bằng L/C có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, ngân hàng phát hành L/C tiến hành thanh toán tiền cho người thụ hưởng (bên bán) từ một khoản tiền đã được bên mua lưu ký hay ký quỹ trước tại ngân hàng. Điều này cho phép hạn chế tối đa các rủi ro có thể xảy ra đối với ngân hàng. Trong trường hợp này, dù có những rủi ro bất ngờ đến với bên mua hoặc bên bán thì ngân hàng cũng không phải chịu chung bất lợi với họ. Tuy nhiên, việc ký quỹ nhiều hay ít còn tùy thuộc vào thỏa thuận giữa các bên cũng như mức độ thân thiện của mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng – người yêu cầu mở thư tín dụng.
Thứ hai, trong thanh toán bằng thư tín dụng, tuy nghĩa vụ trả nợ cho bên bán vốn dĩ là nghĩa vụ của bên mua, phát sinh từ hợp đồng mua bán nhưng do ngân hàng đã phát hành thư tín dụng để cam kết sẽ tự mình thực hiện nghĩa vụ
đó theo yêu cầu của bên mua nên về nguyên tắc chính ngân hàng sẽ là người trực tiếp thanh toán tiền với bên bán, sau đó sẽ yêu cầu hoàn lại từ phía bên mua trên cơ sở số tiền ký quỹ của bên mua khi mở thư tín dụng. Nghĩa vụ này của ngân hàng phát hành L/C tuy phát sinh trên cơ sở nghĩa vụ của bên mua đối với bên bán trong hợp đồng mua bán nhưng sau đó, chính nghĩa vụ này của ngân hàng lại độc lập với nghĩa vụ của người mua trong hợp đồng mua bán, theo đó, ngân hàng phát hành L/C phải thanh toán cho người thụ hưởng – bên bán khi họ xuất trình đầy đủ các chứng từ hợp lệ, bất luận mối quan hệ pháp lý giữa người mua và người bán có hệ quả như thế nào.
Như vậy, có thể nhận thấy trong thanh toán bằng thư tín dụng, sau khi đã được ngân hàng chấp nhận mở L/C, bên mua gần như không phải tự mình trả nợ cho bên bán mà uỷ quyền hoàn toàn cho ngân hàng thực hiện nghĩa vụ này, trên cơ sở làm thủ tục ký quỹ và trả phí cho ngân hàng. Khi bên bán đã xuất trình đầy đủ bộ chứng từ phù hợp thì ngân hàng thực hiện thanh toán cho bên bán theo đúng quy định của L/C. Đồng thời ngân hàng có sự chủ động yêu cầu bên bán phải giao hàng cho bên mua bởi chỉ sau khi giao hàng thì bên bán mới có đủ chứng từ để yêu cầu ngân hàng thanh toán theo L/C đã mở.
Thứ ba, thanh toán bằng L/C luôn phản ánh mối quan hệ dịch vụ giữa ngân hàng bên mua với người mua. Đây là một trong nhiều hoạt động cung cấp dịch vụ của ngân hàng và ngân hàng được thu phí cho dịch vụ này của mình.
Ngoài ra, thanh toán bằng L/C còn có thể phản ánh mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng phát hành L/C với người mua, khi trong tài khoản ký quỹ của người mua không đủ tiền để thanh toán cho người bán. Khoản tiền chênh lệch này được các bên thỏa thuận ngay khi thương lượng về số tiền ký quỹ tại ngân hàng để mở L/C và nó được xem là khoản vay của khách hàng mở L/C tại ngân hàng phát hành. Khoản vay này có thể được đảm bảo bằng hình thức nào là phù thuộc vào sự thỏa thuận giữa các bên khi tiến hành giao dịch về mở thư tín dụng.