Pháp luật về quản lý thuế Giá trị gia tăng tại Việt Nam - 4

trường hợp cần thiết, các thông tin về chủ thể nộp thuế giúp cho cơ quan nhà nước giám sát hoạt động hoàn thuế hoặc áp dụng các biện pháp phi thuế đối với trường hợp vi phạm. Để thực hiện mục đích quản lí thuế nói trên của cơ quan nhà nước, người nộp thuế phải ghi mã số thuế được cấp vào hóa đơn, chứng từ, tài liệu khi thực hiện các giao dịch kinh doanh; kê khai thuế, nộp thuế, hoàn thuế và các giao dịch về thuế; mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác... Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác phải ghi mã số thuế trong hồ sơ mở tài khoản của người nộp thuế và các chứng từ giao dịch qua tài khoản.Cơ sở kinh doanh khi có quyết định giải thể hoặc chấm dứt hoạt động thì mã số thuế đã được cấp sẽ không được sử dụng và không được dùng lại để cấp cho đối tượng nộp thuế khác.

Việc đăng ký thuế kết thúc bằng hành vi cấp giấy chứng nhận đăng ký nộp thuế của cơ quan thuế cho chủ thể kinh doanh. Như vậy, cấp giấy chứng nhận đăng ký thuế là hình thức chấp nhận đăng ký thuế của cơ quan thuế hay nói cách khác là việc cơ quan thuế xác nhận việc đăng ký thuế của chủ thể nộp thuế, đảm bảo cho chủ thể kinh doanh tiến hành hoạt động kinh doanh bình thường. Giấy chứng nhận đăng ký thuế bao gồm các thông tin cơ bản phục vụ cho mục đích giúp cho cơ quan thuế quản lý thông tin, giám sát vi phạm của người nộp thuế.

Đối với cơ quan thuế phải có trách nhiệm sử dụng mã số thuế của đối tượng nộp thuế để quản lý đối tượng nộp thuế, theo dõi số liệu nộp thuế của đối tượng nộp thuế và ghi mã số đối tượng nộp thuế trên mọi giấy tờ giao dịch với đối tượng nộp thuế như thông báo nộp thuế, thông báo phạt, biên bản kiểm tra về thuế, …

Cơ quan thuế có trách nhiệm quản lý toàn bộ hệ thống mã số thuế của các đối tượng nộp thuế và cập nhật mã số thuế vào hệ thống thông tin thuế, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan để tổ chức đưa mã số thuế vào hệ thống thông tin hiện có của các Bộ, ngành có chức năng quản lý liên quan đến đối tượng nộp thuế.

Thứ hai, nhóm quy phạm pháp luật về khai thuế, tính thuế GTGT

Khai thuế là một nghĩa vụ bắt buộc của người nộp thuế khi phát sinh nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật thuế. Kê khai thuế là việc khai báo tất cả những nghiệp vụ chịu thuế (hoạt động chịu thuế) phát sinh trong kỳ, số thuế GTGT đã trả khi mua hàng, số thuế GTGT thu được khi bán hàng trong kỳ, số thuế GTGT đã nộp, số thuế GTGT phải nộp trong kỳ cho cơ quan thuế. Thông thường, kỳ kê khai thuế đối với thuế GTGT được tính theo từng tháng hoặc khai theo lần phát sinh áp dụng đối với trường hợp xuất nhập khẩu hàng hóa chịu thuế GTGT.

Trên thế giới có hai loại cơ chế quản lý thuế chính: cơ chế cơ quan thuế tính thuế và cơ chế người nộp thuế tự tính thuế, hay còn gọi là cơ chế tự khai, tự nộp thuế.

- Cơ chế cơ quan thuế tính thuế: Theo cơ chế này đòi hỏi cán bộ thuế phải kiểm tra tất cả các tờ khai thuế, các khoản phải thu dựa trên những số liệu mà cơ quan thuế có được để xác định số thuế chính thức phải nộp và ra thông báo thuế cho người nộp thuế thực hiện. Cách thức quản lý thuế này mang nặng tính áp đặt và sử dụng quyền lực nhà nước là chủ yếu để quản lý thuế đối với người nộp thuế và tiến độ thu thuế thường chậm. Việc xác định số thuế phải nộp là trách nhiệm pháp lý của cơ quan thuế, không khuyến khích người nộp thuế tự giác tuân thủ. Đồng thời, với cách thức này, đòi hỏi lực lượng đội ngũ cán bộ thuế ngày càng đông đảo để tương ứng với số lượng người nộp thuế gia tăng nhanh chóng, kéo theo chi phí quản lý thuế cũng tăng cao.

- Cơ chế tự khai, tự nộp thuế: Theo cơ chế này, việc kê khai, tính thuế, nộp thuế được thực hiện trên cơ sở sự tuân thủ về nghĩa vụ thuế của người nộp thuế. Người nộp thuế căn cứ các qui định của pháp luật thuế để xác định các loại thuế phải nộp, tự kê khai, tự tính thuế và tự nộp số thuế đã tính vào NSNN. Người nộp thuế có trách nhiệm lưu giữ chứng từ, sổ sách kế toán để chứng minh các số liệu đã kê khai. Cơ quan thuế có nhiệm vụ hỗ trợ, hướng dẫn để người nộp thuế hiểu rõ chính sách thuế, các thủ tục về thuế, từ đó tự thực hiện nghĩa vụ thuế của mình.

Cơ quan quản lý thuế tập trung nguồn lực để giám sát chặt chẽ việc tuân thủ nghĩa vụ thuế của người nộp thuế, thông qua công tác kiểm tra, thanh tra để phát hiện, xử lý kịp thời, đúng đắn hành vi gian lận, trốn thuế của người nộp thuế. Việc kiểm tra, thanh tra của cơ quan thuế đối với người nộp thuế được thực hiện trên cơ sở phân tích thông tin, đánh giá những rủi ro để lựa chọn chính xác những trường hợp cần thanh tra, kiểm tra thuế để giảm chi phí quản lý và không gây phiền hà cho người nộp thuế. Như vậy, thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế không phải buông lỏng sự quản lý, giám sát người nộp thuế mà cơ quan quản lý thuế thực hiện quản lý, giám sát bằng phương pháp mới hiện đại, hiệu quả hơn. Cơ chế quản lý thuế này giúp tạo được sự cân bằng giữa hai chức năng chủ yếu của cơ quan quản lý thuế là chức năng phục vụ và chức năng giám sát, kiểm tra hoạt động tuân thủ luật thuế đối với người nộp thuế, tạo nên sự kết hợp hài hòa vai trò của cơ quan quản lý thuế: cơ quan công quyền thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thuế và đồng thời là một cơ quan cung cấp dịch vụ thuế cho cộng đồng doanh nghiệp và xã hội.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Hiện nay pháp luật Việt Nam đang áp dụng nguyên tắc tự khai tự nộp, người nộp thuế tự kê khai, tự tính số tiền thuế phải nộp trong hồ sơ khai thuế của mình nộp cho cơ quan quản lý thuế. Người nộp thuế có trách nhiệm khai chính xác, trung thực, đầy đủ các nội dung trong tờ khai thuế theo mẫu và nộp đầy đủ các loại chứng từ, tài liệu quy định trong hồ sơ khai thuế với cơ quan quản lý thuế. Nếu trong kỳ tính thuế không phát sinh nghĩa vụ thuế thì người nộp thuế vẫn phải nộp hồ sơ khai thuế cho cơ quan thuế theo đúng quy định.

Liên quan đến nội dung kê khai thuế GTGT, có nhiều hình thức kê khai thuế: kê khai thuế GTGT theo tháng, kê khai thuế GTGT theo từng lần phát sinh và khai quyết toán thuế năm đối với trường hợp tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp trên GTGT…Đối với mỗi trường hợp khai thuế khác nhau sẽ tương ứng với các loại hồ sơ, giấy tờ, tài liệu khác nhau. Người nộp thuế phải nộp hồ sơ khai thuế theo đúng thời hạn quy định tại các địa điểm nộp nhất định. Sau khi nộp hồ sơ khai thuế lên cơ quan thuế, nếu phát hiện hồ sơ khai thuế đã nộp cho cơ quan

Pháp luật về quản lý thuế Giá trị gia tăng tại Việt Nam - 4

thuế có sai sót, nhầm lẫn gây ảnh hưởng đến số thuế phải nộp thì người nộp thuế có quyền khai bổ sung hồ sơ khai thuế.Về nguyên tắc, nhằm khuyến khích người nộp thuế tự kiểm tra và phát hiện, sửa chữa sai sót trong quá trình kê khai và nộp thuế, người nộp thuế có quyền bổ sung hồ sơ khai thuế vào bất kỳ ngày làm việc nào, không phụ thuộc vào thời hạn nộp hồ sơ khai thuế của lần tiếp theo, nhưng phải khai trước khi cơ quan thuế công bố quyết định kiểm tra, thanh tra thuế tại trụ sở người nộp thuế. Trong trường hợp này người nộp thuế không bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi khai thiếu cũng như xử phạt về hành vi trốn thuế.

Thứ ba, nhóm quy phạm pháp luật về ấn định thuế GTGT

Ấn định thuế GTGT là việc cơ quan thuế xác định số thuế phải nộp và yêu cầu người nộp thuế chấp hành việc nộp thuế theo quyết định ấn định thuế của cơ quan thuế trong trường hợp nhất định. Việc ấn định thuế của cơ quan quản lý thuế phải đảm bảo nguyên tắc khách quan, công bằng, tuân thủ đúng quy định của luật, hạn chế việc ấn định thuế mang tính chủ quan, áp đặt, tùy tiện thiếu căn cứ gây thiệt hại cho người nộp thuế hoặc thất thu cho NSNN. Đối tượng áp dụng phương pháp ấn định thuế GTGT hay còn gọi là khoán thuế là các hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ;hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh không có đăng ký kinh doanh, không đăng ký thuế.

Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh là hình thức kinh doanh với qui mô nhỏ lẻ, không có tư cách pháp nhân. Xuất phát từ đặc thù nền kinh tế Việt Nam, loại hình hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh tồn tại khá phổ biến ở Việt Nam. Hiện nay Việt Nam có khoảng 1, 7 triệu hộ kinh doanh, đóng góp khoảng 2, 65% tổng thu ngân sách nhà nước [11]. Trên thực tế, các hộ kinh doanh thường không thực hiện chế độ kế toán, chế độ lập hóa đơn, chứng từ khi mua bán hàng hóa, dịch vụ. Do đó, các hộ kinh doanh không đủ điều kiện để áp dụng phương pháp khấu trừ thuế GTGT mà áp dụng phương pháp nộp thuế theo một tỷ lệ % trên doanh thu, hay chính là việc khoán thuế GTGT.

Cơ quan thuế căn cứ vào tài liệu kê khai của hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh, cơ sở dữ liệu của cơ quan thuế, ý kiến của hội đồng tư vấn thuế xã, phương, thị trấn để xác định mức thuế khoán. Mức thuế khoán được tính theo năm dương lịch và phải được công khai trong địa bàn xã, phường, thị trấn. Trường hợp có thay đổi ngành, nghề, quy mô kinh doanh, người nộp thuế phải khai báo với cơ quan thuế để điều chỉnh mức thuế khoán.

Thứ tư, nhóm quy phạm pháp luật về nộp thuế GTGT

Nộp thuế GTGT là việc chủ thể nộp thuế (người cung cấp hàng hóa, dịch vụ) chuyển số thuế đã thu hộ nhà nước do chủ thể chịu thuế (người tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT) trả thông qua cơ chế giá khi mua hàng hóa dịch vụ thuộc diện chịu thuế GTGT vào NSNN. Đây là nghĩa vụ cơ bản nhất của đối tượng nộp thuế.

Liên quan đến nhóm quy phạm pháp luật về nộp thuế GTGT, có một số vấn đề cần chú ý như sau:

Một là, về thời hạn nộp thuế.Người nộp thuế có nghĩa vụ nộp thuế đầy đủ, đúng hạn vào NSNN. Thời hạn nộp thuế là khoảng thời gian đối tượng nộp thuế phải làm thủ tục nộp thuế choNSNN. Trong các trường hợp khác nhau thì thời hạn nộp thuế khác nhau. Thông thường, đối với trường hợp người nộp thuế tính thuế, thời hạn nộp thuế chậm nhất là ngày cuối cùng của thời hạn nộp hồ sơ khai thuế; đối với trường hợp cơ quan thuế tính thuế hoặc ấn định thuế, thời hạn nộp thuế là thời hạn ghi trên thông báo của cơ quan thuế.

Hai là, về thủ tục nộp thuế, nguyên tắc chung là người nộp thuế thực hiện nộp thuế vào NSNN. Nhằm đảm bảo sự thuận tiện cho người nộp thuế, tránh tình trạng quá tải của các cơ quan quản lý thuế, người nộp thuế có thể nộp thuế tại nhiều địa điểm khác nhau như nộp thuế tại Kho bạc nhà nước; nộp thuế tại nơi cơ quan thuế nơi tiếp nhận hồ sơ khai thuế; nộp thuế thông qua tổ chức được cơ quan thuế ủy nhiệm thu thuế; nộp thuế thông qua ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác và tổ chức dịch vụ theo quy định của pháp luật. Đồng tiền sử dụng để

nộp thuế là tiền Việt nam đồng, một số trường hợp nộp bằng ngoại tệ theo quy định của Chính phủ.

Ba là, về việc gia hạn nộp thuế. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, người nộp thuế có thể gặp thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ, hoặc gặp những khó khăn đặc biệt khác gây thiệt hại về vật chất, ảnh hưởng trực tiếp đến kinh doanh khiến người nộp thuế không có khả năng nộp thuế đúng hạn. Trong các trường hợp đó, người nộp thuế có quyền đề nghịgia hạn việc nộp thuế với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Thứ năm, nhóm quy phạm pháp luật về hoàn thuế GTGT

Hoàn thuế GTGT đứng ở các góc độ khác nhau có nhiều cách nhìn nhận khác nhau. Xét ở góc độ kinh tế - tài chính, hoàn thuế GTGT là việc NSNN trả lại cho đối tượng nộp thuế số tiền thuế GTGT đã nộp vượt quá nghĩa vụ phải thực hiện theo quy định của pháp luật. Xét ở góc độ nghiệp vụ thu thuế, hoàn thuế GTGT là một biện pháp kỹ thuật trong công tác hành thu. Xét ở góc độ pháp lý, hoàn thuế GTGT là quyền của đối tượng nộp thuế được Nhà nước trả lại cho một khoản tiền nhất định khi có đầy đủ các yếu tố cấu thành do luật định. [14, 86]

Với đặc trưng phương pháp tính thuế GTGT chủ yếu dựa trên phương pháp khấu trừ thuế, việc khấu trừ thuế có thể xác định được sự chênh lệch giữa thuế GTGT đầu vào và thuế GTGT đầu ra làm cơ sở cho việc hoàn thuế. Thuế GTGT đầu vào xuất hiện ở khâu mua vào, được tính trong tổng giá ghi trên hóa đơn GTGT mà chủ thể nộp thuế đã trả để nhận được hàng hóa, dịch vụ. Tương tự số thuế đầu ra, thuế GTGT đầu vào bằng tổng số thuế GTGT đã thanh toán được ghi trên hóa đơn GTGT mua hàng hóa, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế GTGT hàng hóa nhập khẩu. Xuất phát từ đặc điểm trên đặt ra yêu cầu đối với công tác quản lý hóa đơn, chứng từ nhằm thực hiện có hiệu quả việc hoàn thuế GTGT.

Pháp luật về quản lý hoàn thuế GTGT là tổng thể các quy phạm pháp luật quy định về thủ tục hoàn thuế GTGT. Nhìn chung, hồ sơ hoàn thuế GTGT thường bao gồm các loại giấy tờ như văn bản yêu cầu hoàn thuế; bảng kê hóa đơn, chứng

từ hàng hóa, dịch vụ mua vào và các tài liệu khác liên quan đến yêu cầu hoàn thuế. Cơ quan quản lý thuế có trách nhiệm tiếp nhận, phân loại và xử lý hồ sơ hoàn thuế GTGT của đối tượng nộp thuế. Nhằm đảm bảo quyền lợi cho đối tượng nộp thuế, việc giải quyết hoàn thuế GTGT phải được thực hiện trong một khoảng thời gian mà pháp luật qui định, đảm bảo nhanh chóng, kịp thời.

Thứ sáu, nhóm quy phạm pháp luật về xóa nợ tiền thuế, tiền phạt

Xóa nợ tiền thuế, tiền phạt được hiểu là việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xóa bỏ nghĩa vụ phải nộp thuế đối với người nộp thuế theo những điều kiện nhất định. Thông thường, đây là các khoản tiền thuế, tiền phạt không có khả năng thu hồi, việc xóa nợ tiền thuế, tiền phạt vừa thể hiện chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với người nộp thuế, vừa giảm tải các chi phí quản lý hành chính đối với các khoản tiền thuế, tiền phạt này.

Đối tượng được xóa nợ tiền thuế tiền phạt thông thường gồm doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản đã thực hiện các khoản thanh toán theo quy định của pháp luật phá sản mà không còn tài sản để nộp tiền thuế, tiền phạt và cá nhân được pháp luật coi là đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự mà không có tài sản để nộp tiền thuế, tiền phạt còn nợ.

Do áp dụng với các đối tượng là doanh nghiệp phá sản, hoặc cá nhân đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự nên hồ sơ đề nghị xóa nợ tiền thuế, tiền phạt ngoài văn bản đề nghị xóa nợ tiền thuế, tiền phạt cònbao gồmtài liệu là căn cứ của việc đề nghị xóa nợ tiền thuế, tiền phạt: đối với Doanh nghiệp là Bản sao quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp của Tòa án;đối với cá nhân là giấy tờ chứng minh cá nhân đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật dân sự và pháp luật tố tụng dân sự. Trong trường hợp doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản, hồ sơ xóa nợ tiền thuế, tiến phạt còn bao gồm tờ khai quyết toán thuế đến thời điểm Tòa án ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp.

1.2.2.2 Pháp luật vềgiám sát và đảm bảo sự tuân thủ pháp luật thuế Giá trị gia tăng

Pháp luật về giám sát và đảm bảo sự tuân thủ pháp luật thuế GTGT bao gồm các nhóm quy phạm pháp luật sau: Nhóm quy phạm pháp luật về quản lý thông tin người nộp thuế; Nhóm quy phạm pháp luật về kiểm tra, thanh tra thuế; Nhóm quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế; Nhóm quy phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo và giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình quản lý thuế GTGT.

Thứ nhất, nhóm quy phạm pháp luật về quản lý thông tin người nộp thuế GTGT

Thông tin người nộp thuế là hệ thống cơ sở dữ liệu liên quan đến người nộp thuế nhằm phục vụ cho mục đích quản lý của các cơ quan có thẩm quyền.

Trong cơ chế quản lý thuế tự khai, tự tính, tự nộp thuế, người nộp thuế được chủ động, tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế của mình theo quy định của pháp luật và phải tự chịu trách nhiệm về việc kê khai, nộp thuế của mình. Cơ quan quản lý thuế không can thiệp trực tiếp vào việc kê khai, nộp thuế trừ khi phát hiện ra các sai sót, vi phạm hoặc có các dấu hiệu không tuân thủ luật thuế. Nền tảng của quản lý thuế hiện tại chính là hướng đến và phát huy cao nhất tính tự giác tuân thủ pháp luật thuế. Để đạt được mục tiêu này, ngoài việc phải làm tốt công tác tuyên truyền, hỗ trợ, hướng dẫn pháp luật thuế để người nộp thuế hiểu rõ và tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế của họ, cơ quan quản lý thuế còn phải có khả năng phát hiện nhanh chóng, chính xác, xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với các đối tượng không tuân thủ pháp luật thuế, nhằm giáo dục, răn đe, phòng ngừa và hướng mọi đối tượng nộp thuế về sự tuân thủ pháp luật một cách tự giác. Nhưng vấn đề đặt ra là làm thế nào để cơ quan quản lý thuế có thể phát hiện nhanh chóng kịp thời đối với hầu hết các đối tượng nộp thuế không tuân thủ pháp luật thuế, trong điều kiện phải tôn trọng và phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của người nộp thuế trong thực hiện nghĩa vụ thuế, mọi hoạt động quản lý thuế của cơ quan thuế phải đảm bảo nguyên tắc không làm cản trở hoạt động bình thường của người nộp thuế. Để giải

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 25/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí