Đánh Giá Thực Trạng Quản Lý Doanh Thu, Chi Phí Đối Với Ctcp Theo Luật Kế Toán, Theo Pháp Luật Thuế

* Đối với chi phí

Đối với chi phí thù lao

Theo Luật doanh nghiệp hiện hành [Điều 117 và Điều 125] chi phí thù lao của thành viên HĐQT và BKS do ĐHĐCĐ quyết định nếu Điều lệ công ty không có quy định khác. Riêng tiền lương của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc do HĐQT quyết định và phải được thể hiện thành mục riêng trong báo cáo tài chính hàng năm của công ty và phải báo cáo ĐHĐCĐ tại cuộc họp thường niên.

Đối với chi phí huy động vốn

Huy động vốn từ chủ sở hữu bằng cách tăng vốn điều lệ tạo ra lợi thế tiết kiệm chi phí cho CTCP nhưng cũng phải tuân theo quy định của Luật chuyên ngành có liên quan. CTCP có quyền phát hành cổ phiếu riêng lẻ để huy động vốn từ một số đối tượng lựa chọn. ĐHĐCĐ quyết định phương án chào bán cổ phần riêng lẻ và sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán. Giá bán cổ phần riêng lẻ do HĐQT quyết định hoặc trên cơ sở thỏa thuận của hai bên. Giá thông thường bằng tiền hoặc trên mệnh giá cổ phần. Trong trường hợp công ty đại chúng đã niêm yết cổ phiếu trên sở giao dịch chứng khoán thì giá giao dịch trên thị trường là giá tham chiếu để thỏa thuận hoặc quyết định chào bán riêng lẻ.

Về thẩm quyền cơ quan nội bộ chào bán cổ phần riêng lẻ: CTCP chưa đại chúng có quyền phát hành khi có quyết định của ĐHĐCĐ thông qua chào bán và sử dụng số tiền thu. Đối với trường hợp công ty đại chúng chào bán cổ phần riêng lẻ ngoài điều kiện như CTCP chưa đại chúng trong quyết định của ĐHĐCĐ thông qua chào bán và sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán còn phải xác định rõ đối tượng, số lượng nhà đầu tư. Còn đối với công ty TNHH chuyển đổi sang CTCP thì phải có quyết định của chủ sở hữu hoặc Hội đồng thành viên.

Về thẩm quyền quản lý chào bán: Thẩm quyền quản lý Nhà nước đối với chào bán cổ phiếu có phân biệt cổ phiếu của công ty đại chúng và công ty chưa

đại chúng. Công ty đại chúng do UBCKNN, đối với công ty chưa đại chúng phân quyền quản lý theo ngành nghề kinh doanh có điều kiện gắn với đặc thù: Bộ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm; Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng và UBCKNN đối với công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ; Sở kế hoạch đầu tư, Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế đối với CTCP ngoài thẩm quyền quản lý trên.

Về thẩm quyền quyết định phát hành trái phiếu: Luật doanh nghiệp hiện hành [điểm d Khoản 2 Điều 108] quy định: HĐQT thông qua hợp đồng vay có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty. Mặt khác, trong trường hợp Điều lệ không có quy định khác thì HĐQT có quyền quyết định các loại trái phiếu, tổng giá trị trái phiếu và thời điểm phát hành nhưng phải báo cáo ĐHĐCĐ tại cuộc họp gần nhất [khoản 3 Điều 88]. Còn Nghị định số 90/2011/NĐ-CP quy định cụ thể về thẩm quyền phê duyệt phương án phát hành trái phiếu trong đó trái phiếu chuyển đổi và trái phiếu kèm chứng quyền thuộc ĐHĐCĐ, đối với trái phiếu khác theo quy định của Luật doanh nghiệp và Điều lệ công ty [10].

2.1.3. Đánh giá thực trạng quản lý doanh thu, chi phí đối với CTCP theo Luật kế toán, theo pháp luật thuế

* Về quản lý doanh thu

Theo Luật kế toán

Thông thường, báo cáo của HĐQT và Tổng giám đốc tại ĐHĐCĐ chỉ đề cập đến những nội dung tổng thể, còn kết quả ghi nhận trên bảng cân đối kế toán là những “con số tổng” được phân loại theo nguồn vốn, tài sản đầu tư, lợi nhuận đầu tư trong khi tổng hợp dữ liệu này lại phụ thuộc vào tính trung thực trong tổ chức hạch toán kế toán và lập bảng cân đối kế toán trong nội bộ công ty. Việc kiểm tra, xác nhận thông tin trong bảng cân đối kế toán bởi

công ty kiểm toán có ý nghĩa bảo đảm mức độ tin cậy về thông tin tài chính của CTCP, nhưng trên thực tế, kết quả kiểm toán chưa chắc được tin cậy khi có hành vi thông đồng gian lận số liệu kế toán giữa CTCP và công ty kiểm toán. Ngoài ra, chưa kể việc gian lận các số liệu kế toán từ phía CTCP mà chưa được phát hiện bởi công ty kiểm toán. Cụ thể: Năm 2011, thị trường chứng khoán bị “sốc” bởi thông tin chủ nợ nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản CTCP Dược Viễn Đông cũng như thông tin nguyên Tổng giám đốc Lê Văn Dũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội thao túng giá chứng khoán. Vụ việc này có liên quan đến hàng loạt hành vi vi phạm tài chính như kinh doanh lòng vòng tạo doanh thu ảo, cung cấp thông tin không đúng về các hợp đồng có giá trị lớn và doanh thu trong quá trình CTCP Dược Viễn Đông chào bán cổ phiếu ra công chúng nhưng công ty kiểm toán không phát hiện được sai phạm. Từ đó có thể thấy rủi ro thông tin khiến cho cả cổ đông và chủ nợ đều có thể bị thiệt hại và có khả năng mất vốn.

Doanh thu được phản ánh qua báo cáo tài chính của CTCP. Do vậy tình hình gian lận doanh thu qua báo cáo tài chính xuất hiện phổ biến ở nhiều CTCP. Theo Công trình nghiên cứu gian lận của Hiệp hội các nhà điều tra gian lận Mỹ (The Association of Certified Fraud Examiners-ACFE) cho thấy, trong các trường hợp khảo sát, gian lận liên quan đến tài sản tuy chiếm khoảng 90% trường hợp nhưng mức thiệt hại cho nền kinh tế là thấp nhất. Trong khi đó, các gian lận trên Báo cáo tài chính, tuy chiếm tỷ lệ thấp nhất nhưng hậu quả gây ra cho nền kinh tế là lớn nhất. Dưới đây là thống kê các loại gian lận phổ biến trên báo cáo tài chính:

Bảng 2.1: Thực trạng Báo cáo tài chính các CTCP niêm yết trong mùa kiểm toán năm 2010.

Loại gian lận

Trường hợp báo cáo

% (trường hợp)

Che dấu công nợ

54

45%

Ghi nhận doanh thu không

có thật

52

43.3%

Định giá sai tài sản

45

37.5%

Ghi nhận sai niên độ

34

28,3%

Không công bố đầy đủ

thông tin

56

48%

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.

Pháp luật về quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong công ty cổ phần ở Việt Nam - 7

(Nguồn: ACFE)

Từ bảng ghi nhận trên, có thể thấy thực trạng gian lận báo cáo tài chính của các CTCP niêm yết năm 2010 chiếm tỷ lệ cao mà gian lận chủ yếu và tập trung là không công bố thông tin đầy đủ (48%), che dấu công nợ (45%), ghi nhận doanh thu không có thật (43,3%)..Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích của các nhà đầu tư cũng như Ngân sách Nhà nước...

Trên thực tế cho thấy nhiều CTCP cố tình ghi nhận doanh thu không có thật hoặc khai sai doanh thu trong báo cáo tài chính nhằm lôi kéo nhà đầu tư như trong một số báo cáo kiểm toán đã đề cập như: CTCP kinh doanh Khí hóa lỏng Miền Bắc (PVG) công bố Báo cáo tài chính hợp nhất đã kiểm toán năm 2010 là lợi nhuận ròng trên báo cáo hợp nhất sau kiểm toán của PVG đạt 35,83 tỷ đồng, giảm 1,2 tỷ đồng so với báo cáo trước kiểm toán. Điều chú ý là đơn vị kiểm toán có ý kiến ngoại trừ việc ghi nhận cổ tức từ lợi nhuận năm 2010 của CTCP phân phối khí thấp áp (PGD), PVG tạm ghi nhận khoản cổ tức 9,28 tỷ đồng của PGD vào doanh thu hoạt động tài chính năm 2010. Tại ngày 31/12/2010, việc phân phối cổ tức nói trên chưa được ĐHĐCĐ của PGD phê duyệt [45]. Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 14 (VAS 14) - Doanh

thu và thu nhập khác, cổ tức và lợi nhuận được chia được ghi nhận khi cổ đông có quyền nhận cổ tức. Nếu công ty áp dụng VAS 14, doanh thu từ hoạt động tài chính và lợi nhuận trước thuế cho năm 2010 sẽ giảm một khoản tương ứng là 9,28 tỷ đồng. Điều này cho thấy mức chênh lệch quá lớn và ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh và uy tín của công ty. Đồng thời cũng ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích của cổ đông...

Luật kế toán cũng quy định ảnh hưởng không nhỏ của bộ máy kế toán, người làm kế toán, kế toán trưởng [Điều 48, 14] đến việc quản lý doanh thu thông qua báo cáo tài chính. Cho nên, đối với CTCP vai trò của bộ phận kế toán rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của công ty. Trên thực tế nhiều CTCP dựa vào kế toán có trình độ để “chế biến” số liệu trên sổ sách, hóa đơn chứng từ cho hợp lý để cố tình trốn thuế gây thiệt hại lớn đối với NSNN. Bên cạnh đó cũng có nhiều trường hợp kế toán dựa vào sự hiểu biết, chuyên môn về nghiệp vụ và chức vụ của mình để chiếm đoạt tài sản của công ty. Tình trạng này không chỉ diễn ra phổ biến ở CTCP mà được xem là tình trạng chung diễn ra phổ biến của nhiều doanh nghiệp trong bối cảnh hiện nay.

Điển hình như vụ án Bùi Thị Minh Hồng – kế toán của phòng giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và nông thôn tỉnh Quảng Ninh lợi dụng chức trách của mình từ đầu năm 2010 đến tháng 11/2011 giả mạo chữ ký của khách hàng, lập chứng từ trái phép, lập hợp đồng cầm cố giả để rút tiền, chiếm đoạt của Ngân hàng số tiền là 9.072.186.000 đồng, tháng 10 năm 2010 Hồng còn tiết lộ thông tin khách hàng tạo điều kiện cho Phạm Minh Tiến cán bộ phòng tín dụng phòng giao dịch chiếm đoạt số tiền là 3.300.000.000 đồng của Ngân hàng. Đồng thời Hồng còn có hành vi xuất kho trái phép 10 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của khách hàng...Hành vi của Hồng đã bị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội xét xử về 02 tội: “Tham ô và Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” theo quy định của Bộ luật hình sự ngày 21/4/2014 [42].

Theo pháp luật thuế

Như đã phân tích ở chương 1 xác định doanh thu, theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành, thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế được xác định bằng thu nhập chịu thuế trừ thu nhập được miễn thuế và các khoản lỗ được kết chuyển từ các năm trước; thu nhập chịu thuế bằng doanh thu trừ các khoản chi được trừ của hoạt động sản xuất, kinh doanh cộng thu nhập khác, kể cả thu nhập nhận được ngoài Việt Nam [Khoản 1, Khoản 2 Điều 7]. Cụ thể:

Đối với CTCP các khoản chi được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế khi đáp ứng đồng thời hai điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành bao gồm: Khoản chi thực tế phát sinh liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và khoản chi có đủ hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật.

Ngoài các chi phí không được trừ khi tính thu nhập chịu thuế đối với CTCP sẽ bao gồm: Khoản tiền phạt do vi phạm hành chính, khoản chi được bù đắp bằng nguồn kinh phí khác; phần chi vượt quá quy định về trích lập dự phòng; phần chi phí nguyên vật liệu, hàng hóa vượt định mức tiêu hao để thông báo cho cơ quan thuế và giá trị thực tế xuất kho; phần trả lãi vay vốn sản xuất kinh doanh của đối tượng không phải là tổ chức tín dụng vượt quá 150% mức lãi suất cơ bản co Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm vay; trích khấu hao tài sản, khoản trích trước vào chi phí, tiền lương, thù lao của chủ sở hữu, quản lý và lao động nhưng thực tế không chi hoặc không có hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật; phần chi trả lãi tiền vay vốn tương ứng với phần vốn điều lệ còn thiếu; thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ, thuế giá trị gia tăng nộp theo phương pháp khấu trừ, phần chi phí quảng cáo, tiếp thị, hoa hồng môi giới..liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh vượt quá 10% tổng số chi được trừ, đối với công ty mới thành lập là 15% trong 3 năm đầu kể từ khi được thành lập...[Điều 9, 2].

Như vậy, việc quản lý doanh thu của CTCP theo pháp luật thuế đòi hỏi CTCP phải tuân thủ việc kinh doanh theo ngành nghề đã đăng ký trên GCNĐKKD, việc sử dụng hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật để đảm bảo hiệu quả quản lý của cơ quan thuế. Thế nhưng, trên thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp và CTCP cố tình trốn thuế khi lợi dụng kẻ hở của pháp luật như: Lợi dụng sự thông thoáng về thủ tục thành lập doanh nghiệp của Luật doanh nghiệp, một số cá nhân sử dụng chứng minh thư nhân dân (CMND) bị thất lạc hoặc thuê, mua CMND rồi báo mất, sau đó thuê người làm giám đốc để thành lập doanh nghiệp nhằm kinh doanh mua bán bất hợp pháp hóa đơn, tiếp tay cho việc chiếm đoạt tiền hoàn thuế từ NSNN. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp tạo chứng từ thanh toán qua ngân hàng cho hàng hóa mua vào từ 20 triệu đồng trở lên để được khấu trừ thuế đầu vào (hoàn thuế) thông qua phương thức nộp tiền mặt và tài khoản của người mua hóa đơn, sau đó người mua hóa đơn chuyển trả vào tài khoản cho người bán hóa đơn hoặc sau khi người mua chuyển khoản thanh toán cho người bán thì lập tức người bán chuyển trả cho người mua qua một tài khoản khác để qua mặt sự kiểm tra của cơ quan chức năng. Hành vi này diễn ra khá phổ biến và song trùng với hành vi mua bán, sử dụng hóa đơn bất hợp pháp đã được phát hiện tại một số địa phương như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đồng Nai... Cụ thể:

Báo cáo sơ kết công tác 6 tháng đầu năm của Tổng cục Thuế năm 2013 cho thấy, thanh tra Bộ Tài chính và Tổng cục Thuế đã tiến hành nhiều cuộc thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về thuế, trong đó có nội dung hoàn thuế GTGT tại 7 Cục Thuế (Thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và Bắc Ninh). Toàn ngành đã tiến hành 1.064 cuộc kiểm tra nội bộ (riêng kiểm tra chuyên đề về thuế GTGT là 577 cuộc), đạt 53% kế hoạch, qua đó kiến nghị truy thu ước đạt 2,37 tỷ đồng nộp NSNN. Riêng trong tháng 7/2013, Tổng cục Thuế kiểm tra việc

hoàn thuế GTGT tại 2 Cục Thuế An Giang và Long An. Kết quả, qua thanh, kiểm tra hồ sơ khai thuế tại các Cục Thuế đã phát hiện người nộp thuế kê khai thiếu thuế GTGT số tiền là 65,8 triệu đồng và thuế thu nhập doanh nghiệp phải tạm kê khai bổ sung 330 triệu đồng [50].

Hay tại Điều 16 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành cho phép doanh nghiệp được chuyển lỗ sang năm sau, số lỗ này được trừ vào thu nhập chịu thuế, thời gian chuyển lỗ không quá 5 năm kể từ năm tiếp theo năm phát sinh lỗ. Quy định này vô tình đã ảnh hưởng đến quyền lợi của cổ đông khi vừa không được nhận cổ tức vừa có khả năng mất vốn nếu công ty rơi vào tình trạng phá sản. Đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp gian lận về thuế. Thực tế cho thấy: Trong 5 tháng đầu năm 2013, ngành thuế đã thực hiện thanh, kiểm tra 18.198 doanh nghiệp, đạt 25,2% nhiệm vụ kế hoạch, tăng 6,1% so với cùng kỳ năm 2012; Số thuế xử lý tăng thu qua thanh tra, kiểm tra là 3.185,9 tỷ đồng, bằng 99,7% so cùng kỳ năm 2012; Số tiền nộp vào NSNN là 2.342,8 tỷ đồng, bằng 73,5% so với số truy thu và phạt, tăng 54,5% so cùng kỳ. Trong đó, Ngành đã thanh tra, kiểm tra 382 doanh nghiệp báo lỗ, có dấu hiệu chuyển giá và doanh nghiệp có hoạt động giao dịch liên kết; truy thu, truy hoàn, phạt là 127,24 tỷ đồng, giảm khấu trừ qua thanh tra là 16,8 tỷ đồng, giảm lỗ qua thanh tra là 444,1 tỷ đồng [33].

* Về quản lý chi phí

Theo Luật kế toán

Theo quy định của Luật kế toán năm 2003 và Nghị định 129/2004/NĐ- CP ngày 31/5/2004 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật kế toán áp dụng trong hoạt động kinh doanh và chuẩn mực kế toán số 01, chi phí sản xuất, kinh doanh phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh thông thường của doanh nghiệp như: Giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí lãi tiền vay và những chi phí liên quan đến hoạt động cho các

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 24/12/2022