Một Số Kiến Nghị Hoàn Thiện Pháp Luật Thuế Giá Trị Gia Tăng

giải thích theo hướng có lợi cho NSNN thì doanh nghiệp lại là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi nhất. Trong phiên họp Quốc hội, đại biểu Võ Kim Cự nhấn mạnh: "việc thất thu thuế không chỉ do đối tượng nộp thuế mà còn cả nguyên nhân quan trọng từ cơ quan quản lý thuế. Không ít cán bộ thuế thiếu trách nhiệm, cố tình làm trái, có hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực khiến đối tượng nộp thuế bất hợp tác. Thế nhưng Luật Quản lý Thuế lại bỏ quên vấn đề này" [38]. Như vậy, theo như đánh giá 4 kỳ vọng của khách hàng đối với dịch vụ thì trước hết sự hợp tác, thái độ của bên cung cấp dịch vụ là thiếu sót, chưa kể trong sự chuẩn xác của dịch vụ thuế là khó đạt được. Ngoài ra, hiện nay chưa có văn bản nào quy định về tính pháp lý của thông tin tư vấn, để người làm công tác tư vấn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác của thông tin mà mình tư vấn cho doanh nghiệp. Do đó độ tin cậy của thông tin tư vấn không cao, vai trò và độ tin cậy của cán bộ tư vấn giảm sút. Mặt khác vẫn còn thiếu cơ chế gắn kết trách nhiệm của cán bộ thuế với kết quả hoạt động và chưa có cơ chế kiểm soát kết quả và chất lượng cung cấp dịch vụ.

Yếu tố khác tác động đến chất lượng công tác tuyên truyền, hỗ trợ doanh nghiệp còn thấp là do trình độ tin học và ứng dụng công nghệ thông tin còn thấp, cán bộ thuế chưa thành thạo các ứng dụng công nghệ thông tin do môi trường làm việc cũ làm việc trên giấy tờ chưa khuyến khích được cán bộ thuế sử dụng các dịch vụ công nghệ thông tin và tâm lý ngại thay đổi phương thức làm việc.

Công tác tuyên truyền thông tin pháp luật thuế GTGT chưa kịp thời trong khi doanh nghiệp vẫn thực hiện thuế GTGT mà thiếu thông tin, làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp. Ví dụ như gần đây, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 219/2013/TT-BTC ban hành ngày 32/12/2013, có hiệu lực 1/1/2014 nhưng đến 17/2/2014 mới được công bố trên trang web của Tổng cục Thuế và đầu tháng 3 doanh nghiệp mới được thông báo. Theo Thông tư thì các doanh nghiệp mới thành lập phải thực hiện

nộp thuế theo phương pháp trực tiếp, các hóa đơn GTGT đã phát hành buộc phải thu hồi để hủy đồng thời phải sử dụng hóa đơn bán hàng mua từ cơ quan thuế. Thông tư đáng lẽ phải nhanh chóng được phổ biến tới với doanh nghiệp nhưng đến tận tháng 3 doanh nghiệp mới được thông báo, hóa đơn GTGT đã phát hành, doanh nghiệp khó lòng thu lại lại được. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật thuế GTGT nếu không thực hiện tốt thì quy định pháp luật không thể thực hiện được đồng thời nếu sự thay đổi quy định pháp luật quá đột ngột sẽ không tránh khỏi phản ứng mạnh mẽ từ phía doanh nghiệp, mức độ tuân thủ thuế từ phía doanh nghiệp sẽ thấp.

2.2.4.2. Đại lý thuế

Tại Việt Nam, hoạt động cung ứng dịch vụ làm thủ tục về thuế được công nhận và điều chỉnh lần đầu tiên tại Luật Quản lý thuế năm 2006, với tên gọi tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế. Trước đó các hoạt động mang tính chất dịch vụ tư vấn thuế đã được thực hiện bởi các công ty kiểm toán, các doanh nghiệp và cá nhân làm dịch vụ kế toán [40], công ty tư vấn và văn phòng luật sư. Sau khi Luật Quản lý thuế và một số văn bản ban hành điều chỉnh trực tiếp việc tổ chức, hoạt động của thiết chế trung gian này như Thông tư số 28/2008/TT-BTC hướng dẫn đăng ký hành nghề và quản lý hoạt động hành nghề dịch vụ làm thủ tục về thuế, việc tổ chức thi, cấp, thu hồi Chứng chỉ hành nghề dịch vụ làm thủ tục về thuế; Quyết định số 316/QĐ-BTC ngày 17/02/2009 ban hành Quy chế thi cấp chứng chỉ hành nghề dịch vụ làm thủ tục về thuế và gần đây nhất, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 117/2012/TT-BTC ngày 19/7/2012 thay thế Thông tư số 28/2008/TT-BTC hướng dẫn về hành nghề dịch vụ làm thủ tục về thuế. Có thể nói, sự ra đời của các văn bản pháp lý liên quan đến mô hình đại lý thuế trong thời gian qua đã tạo lập được cơ sở pháp lý rõ ràng hơn cho sự hình thành và phát triển theo chiều sâu, chuyên nghiệp hóa của các đại lý thuế thông qua các quy định về điều kiện thành lập; trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh; quyền và nghĩa vụ

pháp lý cũng như quy định về việc chấm dứt hoạt động của đại lý thuế; quy định về nhân viên đại lý thuế.

Tuy nhiên, nhìn nhận một cách cụ thể và chi tiết, các quy định pháp luật điều chỉnh mô hình đại lý thuế vẫn chưa hoàn thiện, bộc lộ nhiều hạn chế, từ đó tác động không nhỏ đến sự phát triển, nhân rộng mô hình này tại Việt Nam. Việt Nam với dân số 88 triệu người tính đến tháng 6/2012, 1.179 người được cấp chứng chỉ hành nghề đại lý thuế, trong đó thực tế chỉ có 243 người làm việc tại 105 Đại lý thuế, số còn lại đang làm việc tại các Công ty chưa có đăng ký hành nghề [37].

Hiện nay, trình độ của nhân viên đại lý thuế ở Việt Nam chưa đáp ứng do điều kiện và tiêu chí đánh giá đối với nhân viên địa lý thuế chưa rõ ràng và còn thấp so với yêu cầu thực tế. Thông tư số 117/2012/TT-BTC về hành nghề dịch vụ làm thủ tục về thuế ra đời với mục đích hướng dẫn cụ thể về tổ chức và hoạt động của mô hình đại lý thuế, tuy nhiên các quy định về cấp chứng chỉ hành nghề, đánh giá lại nhân viên đại lý thuế vẫn chưa thể hiện được điểm mới so với Thông tư số 28/2008/TT-BTC trước đây. Để trở thành nhân viên đại lý thuế, điều kiện đáng lưu ý nhất đó là "có chứng chỉ hành nghề dịch vụ làm thủ tục về thuế do Tổng cục Thuế cấp" [2]. Để có chứng chỉ hành nghề thuế thì cá nhân phải đăng ký thi và phải "có bằng cao đẳng trở lên thuộc các chuyên ngành kinh tế, tài chính, kế toán, kiểm toán, luật (chuyên ngành pháp luật kinh tế) và đã có thời gian làm việc trong lĩnh vực này từ hai (02) năm trở lên tính đến ngày nộp hồ sơ đăng ký dự thi" [2], không nằm trong các trường hợp không được làm nhân viên đại lý thuế như: "hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự; các bộ, công chức; người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang phải chấp hành hình phạt tù;…" [2]. Thẩm quyền tổ chức thi và cấp chứng chỉ giao cho Tổng Cục thuế. Các Cục thuế tỉnh, thành phố được tiến hành tổ chức các khoá đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về chính sách thuế, thủ tục về thuế, kế toán cho người dự thi lấy chứng chỉ hành nghề dịch vụ làm

thủ tục về thuế. Như vậy, điều kiện để được tham gia thi và cấp chứng chỉ hành nghề dịch vụ thuế khá dễ dàng, cùng với đó là các lớp đào tạo chứng chỉ nghề với thời gian ngắn (khoảng 2 tháng) thực tế khó đáp ứng đầy đủ các kiến thức, kỹ năng cần thiết. Thuế là một lĩnh vực phức tạp đòi hỏi không chỉ kiến thức về pháp luật, tài chính, kế toán mà còn yêu cầu kinh nghiệm thực tiễn. Do đó chất chất lượng cung cấp dịch vụ của nhân viên đại lý thuế ở Việt Nam chưa đảm bảo chất lượng dịch vụ, yêu cầu của khách hàng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.

Ở các quốc gia phát triển, Chính phủ tăng cường phát triển mạnh mẽ các đại lý thuế, tạo điều kiện giúp đỡ, hỗ trợ các doanh nghiệp nộp thuế. Đại lý thuế là cầu nối giữa NNT với cơ quan thuế giúp cho hoạt động thu nộp thuế diễn ra nhanh gọn, hiệu quả. Trên cơ sở sự ủy quyền của NNT, đại lý thuế - pháp nhân trung gian giữa NNT với cơ quan quản lý thuế sẽ thực hiện dịch vụ về thuế như đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, lập hồ sơ đề nghị miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế và các thủ tục hành chính thuế khác thay NNT. Mô hình đại lý thuế có ý nghĩa rất lớn trong công tác quản lý thuế nói chung và thu nộp thuế nói riêng: đại lý thuế không những giúp cho nguồn thu NSNN ổn định, mà còn hỗ trợ đắc lực cho công tác quản lý thuế, tuyên truyền, vận động, giải thích để NNT hiểu và chấp hành tốt pháp luật thuế.

Nếu như tại nhiều quốc gia như Đức, Nhật Bản, Trung Quốc, đại lý thuế là một mô hình được quan tâm, có lịch sử phát triển lâu dài, thì tại Việt Nam, đại lý thuế vẫn còn là một khái niệm chưa thực sự quen thuộc. Điều này dễ dàng nhận thấy qua một sự so sánh nhỏ như sau: Tại Cộng hòa liên bang Đức, với dân số 82 triệu người có số lượng đại lý thuế là 79.913 người và

Bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp trong thi hành pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam - 13

8.416 công ty; Nhật Bản một quốc gia đi đầu trong phát triển các tổ chức hỗ trợ kê khai thuế tính đến cuối tháng 3 năm 2012 đã có tới 72.635 đại lý thuế là thể nhân, 2.366 đại lý thuế là pháp nhân so với dân số 127 triệu người [37].

Ở Australia, các đại lý thuế đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp nộp thuế. Đại lý thuế được cấp phép bởi một tổ chức độc lập là hiệp hội quản lý các đại lý thuế, cơ quan này đăng ký với cơ quan thuế để được cấp mã số thuế dành cho đại lý thuế [34]. Do đó, phần lớn các hoạt động hỗ trợ tuân thủ của cơ quan thuế là dành cho đại lý thuế như là: thiết lập trang web của cơ quan thuế dành cho đại lý thuế để các đại lý thuế truy cập vào các thông tin cập nhật về khách hàng tại cơ quan thuế; hay các chương trình trả lời dịch vụ điện thoại; các công cụ tự tra cứu; hay các chương trình thuyết trình trực tiếp về các vấn đề kỹ thuật thuế; các thông báo điện tử; trợ giúp người làm thuế chuyên nghiệp. Các sản phẩm hỗ trợ của cơ quan thuế liên tục được nâng cao trên cơ sở ý kiến phản hồi từ các đại lý thuế. Cơ quan thuế cũng được phép thanh tra các đại lý thuế không thực hiện đúng quy định. Hoạt động của các đại lý thuế bảo đảm cho các tờ khai thuế của NNT chính xác và nộp thuế đúng hạn [9].

Ở Nhật Bản, các đại lý thuế tập trung hoạt động vào một tổ chức có tên gọi Hiệp hội kế toán thuế công thành lập từ năm 1951. Đây là tổ chức chịu trách nhiệm quản lý hoạt động liên quan đến quản lý, phát triển dịch vụ về thuế từ đăng ký đại lý thuế và khai báo pháp nhân của đại lý thuế (áp dụng từ năm 1961, trước đó thuộc thẩm quyền của Tổng Cục thuế) đến hoạt động giám sát hoạt động của đại lý thuế và các công việc tuyên truyền, hỗ trợ chính sách pháp luật khác. Về tổ chức, Hội kế toán thuế công Nhật Bản là tập hợp của 15 Hội kế toán thuế công trên toàn nước Nhật [9], [37]... Điều đáng chú ý trong cơ cấu các Ban trực thuộc, Hội Kế toán thuế công của Nhật Bản thiết lập Ban chuyên trách về khâu đào tạo và giám sát (Ban thúc đẩy giáo dục về thuế và Ban giám sát kỷ cương), đây là hai đơn vị có vai trò rất lớn trong hoạt động tuyên truyền giáo dục kiến thức pháp luật về thuế và đảm bảo tính tuân thủ pháp luật của các đại lý thuế. Bởi cơ cấu tổ chức chặt chẽ, mục tiêu hoạt động rõ ràng, độc lập nên Hiệp hội kế toán công Nhật Bản đã khẳng định vai trò rất lớn trong phát triển mô hình đại lý thuế. Thêm vào đó, ở Nhật Bản, tiêu

chuẩn hành nghề, cơ chế đánh giá, kiểm tra trình độ của các nhân viên đại lý thuế rất chặt chẽ. Sau khi được cấp chứng chỉ rồi, các cá nhân vẫn phải kiểm tra lại. Do đó chất lượng cung cấp dịch vụ của các đại lý cho các doanh nghiệp hiệu quả, góp phần giúp doanh nghiệp thực hiện thuế GTGT nghiêm chỉnh [9].


2.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG

2.3.1. Kiến nghị đối với Luật Thuế giá trị gia tăng

Về đối tượng không chịu thuế:

Để đảm bảo tính liên hoàn của thuế GTGT, cũng như để phù hợp với thông lệ quốc tế và chủ trương của Nhà nước, Việt Nam nên đưa khỏi diện chịu thuế GTGT một số mặt hàng hóa, dịch vụ và cũng chỉ nên để lại trong diện không chịu thuế GTGT đối với các nhóm hàng hóa, dịch vụ có tính chất sau: (i) hàng hóa dịch vụ do Nhà nước trả tiền; (ii) hàng hóa, dịch vụ theo thông lệ quốc tế không đánh thuế GTGT; (iii) hàng hóa, dịch vụ được ưu đãi vì vai trò thiết yếu của xã hội và đặc biệt quan trọng.

Luật Thuế GTGT cũng cần quy định ngưỡng doanh thu cho doanh nghiệp không chịu thuế để các doanh nghiệp nhỏ và vừa có doanh thu một năm dưới 100 triệu được hưởng ưu đãi như hộ, cá nhận kinh doanh, tạo điều kiện thực hiện quyền và nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp thì cần thực hiện giảm tần suất kê khai thuế và đơn giản hóa các thủ tục hành chính thuế. Theo kết quả thống kê của Tổng cục Thuế thì phần lớn số thuế nộp vào NSNN chỉ tập trung vào một số lượng rất ít các doanh nghiệp có quy mô lớn; còn số lượng lớn các doanh nghiệp chỉ đóng góp một tỷ trọng rất nhỏ. Tuy nhiên, các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ vẫn phải thực hiện việc kê khai, nộp thuế đầy đủ thủ tục như nhau, làm tốn nhiều thời gian, công sức và chi phí của doanh nghiệp.

Về Thuế suất:

- Luật thuế GTGT cần tiến tới áp dụng một mức thuế suất GTGT thông thường, ngoài mức thuế suất đặc biệt là 0%. Vậy nếu Việt Nam áp dụng một mức thuế suất thông thường thì mức thuế suất này bao nhiêu là phù hợp. Theo lộ trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2020 sẽ cơ bản áp dụng một mức thuế thống nhất là 10% vậy nên từ nay đến năm 2020 thì cần chuyển dần một số nhóm hàng hóa, dịch vụ từ 5% sang áp dụng 10%.

- Nếu như trước mắt Luật thuế GTGT vẫn giữ nguyên 3 mức thuế suất mà chưa thực hiện một mức thuế suất thì cần xác định tiêu chí phân loại rõ ràng, không phân loại dựa vào mục đích sử dụng vì khó xác định được mục đích tiêu dùng của hàng hóa dịch vụ mà cần xác định theo cấu tạo, tính năng, tính chất cùng loại của hàng hóa, dịch vụ đó.

Về phương pháp tính thuế:

Việc duy trì hai phương pháp tính thế GTGT: phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp hiện nay gây ra nhiều bất cập, vì vậy chúng tôi kiến nghị nên nghiên cứu áp dụng thống nhất một phương pháp trong tính thuế GTGT phương pháp khấu trừ thuế GTGT. Bởi vì, duy trì hai phương pháp tính thuế làm trái bản chất của thuế GTGT là thuế gián thu liên hoàn, làm bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp khi thực hiện tính thuế theo hai phương pháp khác nhau. Có doanh nghiệp được áp dụng theo phương pháp khấu trừ thuế trong khi có doanh nghiệp lại áp dụng phương pháp trực tiếp gây ra cách tính thuế không thống nhất và thiếu công bằng giữa các doanh nghiệp với nhau trong quá trình thực hiện thuế GTGT.

Về điều kiện hoàn thuế, khấu trừ thuế:

Quy định về điều kiện hoàn thuế, khấu trừ thuế phải đảm bảo tính liên hoàn trung lập, kinh tế cao của thuế GTGT. doanh nghiệp có nghĩa vụ nộp thuế đồng thời có quyền được khấu trừ, hoàn thuế theo quy định của pháp luật. Quy định Luật Thuế GTGT hiện nay quy định tương đối rõ ràng tuy nhiên đối với quy định các dịch vụ do cơ sở kinh doanh cung cấp cho tổ chức,

cá nhân ở trong khu phi thuế quan bao gồm: cho thuê nhà, hội trường, văn phòng, khách sạn, kho bãi, dịch vụ vận chuyển đưa đón người lao động; dịch vụ ăn uống không được hưởng thuế suất 0% thì chưa hợp lý. Các dịch vụ này sử dụng phục vụ cho kinh doanh sản xuất để xuất khẩu. Cần cho phép các dịch vụ trên do cơ sở kinh doanh cung cấp cho tổ chức, cá nhân ở trong khu phi thuế quan cũng được hưởng thuế suất 0% mới đảm bảo quyền lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ.

Về hoàn thuế:

- Một trong các trường hợp thuộc đối tượng được hoàn thuế là khi cơ sở kinh doanh có quyết định xử lý hoàn thuế của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và trường hợp hoàn thuế GTGT theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Hoàn thuế trong trường hợp có quyết định xử lý hoàn thuế của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật là một quy định thừa, chung chung và không cần thiết.

- Đề nghị quy định thời gian 3 tháng được hoàn thuế khi lũy kế thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết như Luật Thuế GTGT trước đây thay vì quy định kéo dài tới 12 tháng khiến doanh nghiệp phải chờ đợi quá lâu mới được hoàn thuế, ảnh hưởng tới tài chính của doanh nghiệp. Thời gian 3 tháng được hoàn thuế khi lũy kế thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết theo như quy định của Luật thuế GTGT năm 2008 đảm bảo quyền lợi của doanh nghiệp hơn rất nhiều so với quy định của Luật thuế GTGT sửa đổi, bổ sung năm 2013.

Về hóa đơn thuế GTGT:

Nên cho phép các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ được mua hóa đơn thay vì mở rộng đối tượng doanh nghiệp được tự in hóa đơn nhằm tránh tình trạng mua bán hóa đơn tràn lan, khó kiểm soát, khi xảy ra tranh chấp hay vi phạm hóa đơn không xác định được bên vi phạm khi hàng hóa trao đổi qua

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 19/12/2022