(dự báo, phân tích dữ liệu, rà soát thường xuyên, họp trao đổi...). Cuối cùng là biện pháp đối phó với rủi ro, trong phần lớn các trường hợp rủi ro phải được xử lý, hạn chế và đơn vị duy trì KSRR để có biện pháp thích hợp. Các biện pháp xử lý, hạn chế rủi ro cần ở mức độ hợp lý vì mối liên hệ giữa lợi ích và chi phí nhưng nếu nhận dạng được và đánh giá được rủi ro thì có sự chuẩn bị tốt hơn.
2.2.4.5. Nhân tố Phản ứng rủi ro.
Sau khi đã đánh giá các rủi ro liên quan, đơn vị xác định các cách thức để phản ứng với các rủi ro đó. Các cách thức để phản ứng với rủi ro bao gồm:
- Né tránh rủi ro: được sử dụng khi các phản ứng khác không thể làm giảm khả năng xảy ra của sự kiện hoặc tác động của sự kiện đó xuống mức có thể chấp nhận được, không thực hiện các hoạt động mà có rủi ro cao.
- Giảm bớt rủi ro: được sử dụng để làm giảm rủi ro kiểm soát xuống mức phù hợp với từng mức độ rủi ro bộ phận, các hoạt động nhằm làm giảm thiểu khả năng xuất hiện hoặc mức độ tác động của rủi ro hoặc cả hai. Các hoạt động này liên quan đến việc điều hành hàng ngày tại đơn vị.
- Chuyển giao rủi ro: Làm giảm thiểu khả năng xuất hiện và mức độ tác động của rủi ro bằng cách chuyển giao hoặc chia sẽ một phần rủi ro.
- Chấp nhận rủi ro: khi rủi ro tiềm tàng của sự kiện nằm trong phạm vi của rủi ro bộ phận, đơn vị không làm gì cả đối với rủi ro.
Khi lựa chọn một phản ứng đối với rủi ro, cần xem xét các vấn đề sau:
- Xác định các phản ứng: đối với nhiều loại rủi ro, việc xác định phương thức phản ứng tương đối dễ dàng.
- Ảnh hưởng của phản ứng của đơn vị đến khả năng và tác động của rủi ro, và phản ứng nào nằm trong phạm vi của rủi ro bộ phận.
Có thể bạn quan tâm!
- Kiểm soát rủi ro trong công tác hoàn thuế giá trị gia tăng tại Chi cục Thuế khu vực Tân Uyên, tỉnh Bình Dương - 2
- Cơ Sở Lý Thuyết Về Kiểm Soát Rủi Ro Và Hoàn Thuế Giá Trị Gia
- Mục Tiêu, Ý Nghĩa Kiểm Soát Rủi Ro Trong Đơn Vị Công
- Các Trường Hợp Gian Lận Và Bài Học Kinh Nghiệm Về Quản Lý Hoàn Thuế Giá Trị Gia Tăng
- Bài Học Trong Xây Dựng Và Áp Dụng Bộ Tiêu Chí Quản Lý Rủi Ro Trong Quản Lý Hoàn Thuế Gtgt
- Quy Trình Hoàn Thuế Trước Kiểm Tra Sau Và Kiểm Tra Trước Hoàn Thuế Sau Tại Chi Cục Thuế Khu Vực Tân Uyên.(Phụ Lục 5).
Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.
- Lợi ích và chi phí của từng loại phản ứng
- Cơ hội có thể có đối với việc thực hiện mục tiêu chung của đơn vị khi phản ứng với các rủi ro cụ thể.
- Lựa chọn phản ứng: sau khi đã đánh giá các phản ứng khác nhau đối với rủi ro, đơn vị quyết định phải quản lý rủi ro như thế nào, lựa chọn phản ứng để đối phó với rủi ro trong phạm vi rủi ro bộ phận, lưu ý rằng phản ứng được lựa chọn không phải là phản ứng có rủi ro kiểm soát nhỏ nhất. Tuy nhiên, khi rủi ro kiểm soát vượt ra khỏi giới hạn của rủi ro bộ phận, đơn vị cần phải xem xét lại phản ứng đã chọn, hoặc trong một số trường hợp thì đơn vị có thể điều chỉnh lại rủi ro bộ phận đã được thiết lập trước đây.
Việc lựa chọn phản ứng đòi hỏi đơn vị phải xem xét các rủi ro mới, phát sinh từ việc áp dụng phản ứng đó. Điều này phát sinh một chu trình kế tiếp và đơn vị phải xem xét tiếp rủi ro trước khi đưa ra quyết định cuối cùng.
Nhìn nhận rủi ro một cách hệ thống có thể được diễn tả theo nhiều cách khác nhau như: kết hợp các sự kiện hoặc rủi ro quan trọng và xem xét sự tác động đến các bộ phận của đơn vị; xem xét tác động của các rủi ro đơn lẻ đến toàn bộ đơn vị bằng cách định lượng sự tác động của rủi ro đến việc đạt mục tiêu của đơn vị… Với cách nhìn nhận định lượng này, đơn vị có những thông tin hữu ích để phân bổ nguồn vốn hợp lý giữa các bộ phận, và thực hiện các điều chỉnh về chiến lược.
2.2.4.6. Nhân tố Hoạt động kiểm soát.
Hoạt động kiểm soát là những chính sách, thủ tục để đảm bảo cho các chỉ thị của nhà quản lý được thực hiện thể hiện ở việc phân chia trách nhiệm, kiểm soát quá trình xử lý thông tin, bảo vệ tài sản, phân tích và rà soát để từ đó phát hiện những điều bất thường kịp thời điều chỉnh. Hoạt động kiểm soát bao gồm các hoạt động kiểm soát phòng ngừa và phát hiện rủi ro.
+ Thủ tục phân quyền và xét duyệt: Tuỳ theo cách điều hành của các nhà quản lý mà họ có thể quy định thẩm quyền hay thủ tục phê chuẩn khác nhau. Sự phân quyền cho các cấp và xác định rõ thẩm quyền phê chuẩn của từng người được xuất phát từ nguyên nhân là các nhà quản lý không thể hoặc không nên quyết định trực tiếp mọi vấn đề. Nhờ đó người quản lý vẫn kiểm soát và hạn chế sự tuỳ tiện khi giải quyết công việc. Việc thực hiện các nghiệp vụ chỉ được thực hiện bởi người được ủy quyền theo trách nhiệm và phạm vi của họ. Các thủ tục ủy quyền phải được tài liệu hóa và công bố rõ ràng, phải bao gồm những điều kiện cụ thể.
+ Tuân thủ những quy định: Theo sự phân công chi tiết và ủy quyền nói trên, người được uỷ quyền thực hành đúng theo hướng dẫn, trong giới hạn được quy định uỷ quyền của người lãnh đạo và theo quy định của luật pháp.
+ Phân chia trách nhiệm: Nguyên tắc này được thực hiện thông qua việc phân chia trách nhiệm cho nhiều người, nhiều bộ phận cùng tham gia, với mục đích là không để một bộ phận nào hoặc một cá nhân nào có thể kiểm soát được mọi mặt của một vấn đề (hay nghiệp vụ). Khi đó thông qua cơ cấu tổ chức, công việc của một nhân viên này được kiểm soát bởi một nhân viên khác. Việc phân chia trách nhiệm như vậy sẽ giảm bớt được các rủi ro, xảy ra các sai sót nhầm lẫn và hành vi gian lận.
+ Kiểm soát việc tiếp cận tài sản và sổ sách: Biện pháp quan trọng để bảo vệ tài sản, tài liệu kế toán và các thông tin khác là phải áp dụng những thể thức
kiểm soát vật chất. Việc tiếp cận tài sản và sổ sách phải được giới hạn trong những cá nhân mà họ được giao trách nhiệm bảo quản hoặc sử dụng tài sản. Trách nhiệm của người bảo quản tài sản thể hiện qua chứng từ, hàng tồn kho, ghi chép sổ sách. Hạn chế việc tiếp cận tài sản, sổ sách khi chưa được phép của người quản lý, để làm giảm rủi ro lạm dụng hoặc làm thất thoát tài sản của Nhà nước.
+ Kiểm tra, đối chiếu: Các nghiệp vụ và sự kiện phải được kiểm tra trước và sau khi xử lý. Sổ sách được đối chiếu với các chứng từ thích hợp một cách định kỳ.
+ Rà soát việc thực hiện các hoạt động: Việc thực hiện các hoạt động được rà soát dựa trên một loạt các chuẩn mực nguyên tắc cơ bản, đánh giá hiệu quả và tính hữu hiệu. Nếu sự rà soát cho thấy rằng các hoạt động thực hiện không phù hợp với mục tiêu của tổ chức hoặc các tiêu chuẩn, thì quy trình thực hiện để đạt các mục tiêu cần phải rà soát lại để đưa ra cải tiến cần thiết.
+ Rà soát sự điều hành, xử lý và hoạt động: Việc điều hành, xử lý và hoạt động nên được rà soát định kỳ để đảm bảo tuân thủ nguyên tắc, chính sách, thủ tục và những đòi hỏi hiện hành khác.
+ Giám sát nhân viên: Việc giám sát kỹ càng giúp việc đảm bảo rằng mục tiêu của việc tổ chức sẽ được thực hiện. Sự giao việc, soát xét và chấp thuận công việc của nhân viên bao gồm: Sự thông báo rõ ràng, nghĩa vụ, trách nhiệm và sự chịu trách nhiệm giao cho mỗi thành viên; Đánh giá một cách hệ thống công việc của mỗi thành viên trong phạm vi cần thiết; Đánh giá công việc theo những tiêu chuẩn để đảm bảo công việc được thực hiện theo đúng định hướng.
2.2.4.7. Nhân tố Thông tin và truyền thông
Thông tin và truyền thông, các đơn vị dù sử dụng bằng máy tính cũng như thủ công thì thông tin cung cấp phải đảm bảo được độ chính xác, thích hợp và cập nhật, truy cập thuận tiện. Sự thu nhận và truyền đạt thông tin đảm bảo mọi thành viên trong đơn vị đều phải hiểu rõ công việc của mình, tiếp nhận đầy đủ và chính xác các chỉ thị của cấp trên, hiểu rõ mối quan hệ của các bộ phận.
Điều kiện đầu tiên đảm bảo thông tin thích hợp và đáng tin cậy là thông tin phải được ghi chép kịp thời, phân loại đúng các nghiệp vụ và sự kiện, được chuyển đi dưới những biểu mẫu và lộ trình đảm bảo nhân viên thực hiện chức năng trong KSRR. Do đó, KSRR đòi hỏi tất cả các nghiệp vụ phải lập các chứng từ đầy đủ. Khả năng ra quyết định của các nhà lãnh đạo bị ảnh hưởng bởi chất lượng của những thông tin như tính thích hợp, tính kịp thời, cập nhật, chính xác và có thể sử dụng được. Bên cạnh đó, truyền thông hữu hiệu là việc cung cấp
thông tin từ cấp trên xuống cấp dưới hoặc từ cấp dưới lên cấp trên hoặc ngang hàng giữa các bộ phận, thông tin xuyên suốt toàn bộ trong tổ chức.
2.2.4.8. Nhân tố Giám sát.
Hoạt động giám sát là quá trình mà nhà quản lý đánh giá chất lượng của hệ thống kiểm soát, xác định KSRR có vận hành như đúng thiết kế hay không, cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện thực tế. Cần phải tiến hành giám sát thường xuyên đối với những góp ý từ cấp trên, từ các bộ phận phòng ban, từ khách hàng, nhà cung cấp, các biến động bất thường và việc giám sát được thực hiện thường xuyên, định kỳ hoặc kết hợp cả hai.
- Giám sát thường xuyên: KSRR được thiết lập cho những họat động thông thường và lặp lại của tổ chức. Bao gồm cả những hoạt động giám sát và quản lý mang tính chất định kỳ ngay trong quá trình thực hiện của các nhân viên trong công việc hàng ngày. Giám sát thường xuyên được thực hiện trên tất cả các yếu tố của KSRR và liên quan đến việc ngăn chặn và phát hiện tất cả những hiện tượng vi phạm pháp luật, không tiết kiệm, không hiệu quả của hệ thống.
- Giám sát định kỳ: Phạm vi và tầng suất giám sát định kỳ phụ thuộc vào sự đánh giá mức độ rủi ro và hiệu quả của thủ tục giám sát thường xuyên. Giám sát định kỳ bao phủ toàn bộ sự đánh giá, sự hữu hiệu của KSRR và đảm bảo KSRR đạt kết quả như mong muốn dựa trên các phương pháp và thủ tục kiểm soát.
Như vậy, các yếu tố hợp thành của KSRR có quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó nhấn mạnh tới việc nhà quản lý cần đánh giá rủi ro có thể đe dọa đến việc thực hiện các mục tiêu, hoạt động kiểm soát sẽ tiến hành xử lý các rủi ro trên thực tế. Trong khi đó các thông tin thích hợp cần phải được thu thập và quá trình trao đổi thông tin phải diễn ra thông suốt trong toàn bộ tổ chức.
2.3. Kiểm soát rủi ro trong quản lý hoàn thuế Giá trị gia tăng
2.3.1. Hoàn thuế Giá trị gia tăng
2.3.1.1. Khái quát chung về thuế giá trị gia tăng, khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng
Thứ nhất về khấu trừ thuế giá trị gia tăng
Thuật ngữ thuế giá trị gia tăng tiếng Anh là Value Added Tax (VAT), thường được dùng để chỉ một loại thuế gián thu, đánh vào việc sử dụng thu nhập, tức đánh vào việc tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ mà cụ thể là đánh vào hành vi chuyển giao tài sản và cung cấp dịch vụ phát sinh trong quá trình sản xuất, lưu thông, tiêu dùng thông qua việc mua bán, trao đổi hàng hóa và dịch vụ.
Tại Điều 10 Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008 qui định "Số thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ bằng tổng số thuế giá trị gia tăng ghi trên hóa đơn
giá trị gia tăng mua hàng hóa, dịch vụ, chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng của hàng hóa nhập khẩu và đáp ứng điều kiện qui định".
Như vậy, Khấu trừ thuế GTGT là việc số thuế GTGT phải nộp được tính trên cơ sở số thuế GTGT đầu ra trừ đi số thuế GTGT đầu vào. Khấu trừ thuế GTGT đầu vào là một nội dung cơ bản và hết sức quan trọng của pháp luật về thuế GTGT. Theo quy định thì những doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế mới được khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Một doanh nghiệp muốn được khấu trừ thuế GTGT đầu vào cần đáp ứng một số điều kiện về hoá đơn chứng từ, thanh toán theo quy định. Cụ thể là cần phải có hóa đơn GTGT mua hàng hóa, dịch vụ, hoặc chứng từ nộp thuế GTGT ở khâu nhập khẩu. Hơn nữa, đối với các hàng hóa, dịch vụ mua từng lần có giá trị trên 20 triệu đồng còn phải có chứng từ thanh toán qua ngân hàng. Mặc dù những quy định về hóa đơn, chứng từ là cần thiết nhưng chủ yếu chỉ có ý nghĩa về mặt hạch toán kế toán hơn là khả năng chứng minh cơ sở, tính hợp lệ và nguồn gốc của hàng hóa đầu vào.
Thứ hai về hoàn thuế giá trị gia tăng:
Hoàn thuế GTGT là việc nhà nước trả lại số thuế GTGT mà đối tượng nộp thuế đã nộp cho NSNN trong một số trường hợp nhất định. Cụ thể hơn, hoàn thuế GTGT là việc NSNN trả lại cho cơ sở kinh doanh hoặc tổ chức, cá nhân mua hàng hóa, dịch vụ về sử dụng số tiền thuế đầu vào đã trả khi mua hàng hóa, dịch vụ mà cơ sở kinh doanh còn chưa được khấu trừ trong kì tính thuế hoặc hàng hóa, dịch vụ trong trường hợp tiêu dùng của tổ chức, cá nhân đó không thuộc diện chịu thuế.
Theo quy định thì doanh nghiệp kê khai nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ được hoàn thuế GTGT thuộc một trong các trường hợp quy định tại Luật thuế GTGT và các Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật thuế GTGT. Theo đó, đối với cơ sở kinh doanh trong tháng, quý có hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu nếu có số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ từ ba trăm triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế GTGT theo tháng, quý. Bên cạnh đó, trường hợp cơ sở kinh doanh đã đăng ký nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ có dự án đầu tư mới, đang trong giai đoạn đầu tư có số thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ mua vào sử dụng cho đầu tư mà chưa được khấu trừ hết còn lại từ ba trăm triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế GTGT. Đây là hai trường hợp hoàn thuế GTGT phổ biến; ngoài ra, cơ sở kinh doanh được hoàn thuế giá trị gia tăng khi chuyển đổi sở hữu, chuyển đổi doanh nghiệp, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động. Các chương trình, dự án sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cũng được hoàn thuế theo quy định.
Hiện nay, quy trình hoàn thuế GTGT hàng hoá, dịch vụ mua vào đang thực hiện theo Quyết định số 905/QĐ-TCT ngày 01/7/2011 nội dung về quy trình
hoàn thuế và Công văn số 3228/TCT-KK ngày 12/8/2014 về việc sửa đổi, bổ sung một số điểm tại quy trình hoàn thuế 905 của Tổng cục Thuế; quản lý hoàn thuế GTGT thực hiện theo Thông tư số 99/2016/TT-BTC ngày 29/6/2016. Các văn bản hướng dẫn về quy trình hoàn thuế, quản lý hoàn thuế được ban hành đã góp phần thực hiện được mục tiêu cải cách thủ tục hành chính, hướng dẫn người nộp thuế thực hiện đúng các thủ tục hành chính và các quy định của Luật Quản lý thuế, của pháp luật thuế, hoàn thuế; giúp cơ quan thuế thực hiện kiểm tra hồ sơ theo quy trình và nội dung quy định. Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận rõ công tác giải quyết hồ sơ và cán bộ thuế là các yếu tố có vai trò quan trọng, vì vậy việc xây dựng HTKSRR vững mạnh, nhằm nâng cao hiệu quả hơn nữa trong việc hoàn thuế GTGT là rất cần thiết.
2.3.1.2. Vai trò của hoàn thuế giá trị gia tăng.
Hoàn thuế là một đặc tính của Luật thuế GTGT. Thông qua việc thực hiện pháp luật thuế GTGT thì hoàn thuế GTGT đã thể hiện được những vai trò và ý nghĩa như sau:
Thứ nhất: Hoàn thuế GTGT thể hiện tính ưu việt, vượt trội của thuế GTGT so với thuế doanh thu. Hoàn thuế GTGT đã khắc phục nhược điểm đánh thuế trùng lặp giữa các khâu, đối với cùng một hàng hóa, dịch vụ hay cùng một chủ thể nộp thuế, từ khâu sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng của thuế doanh thu.
Thứ hai: Hoàn thuế GTGT giữ vai trò và ý nghĩa to lớn trong việc bảo đảm tính công bằng, bình đẳng cho các chủ thể nộp thuế.
Thứ ba: Hoàn thuế GTGT đóng vai trò quan trọng trong việc kích thích, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ.
Thứ tư: Hoàn thuế GTGT là động lực để doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế thực hiện nghiêm chỉnh chế độ hóa đơn, chứng từ, chế độ kế toán.
2.3.2. Hệ thống văn bản pháp luật về thuế giá trị gia tăng và kiểm soát rủi ro trong quản lý thuế
- Luật thuế GTGT
- Các nghị định hướng dẫn luật thuế GTGT
- Các thông tư hướng dẫn nghị định về thuế GTGT
- Các thông tư quy định về áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế
- Các công văn hướng dẫn về việc xử lý hoàn thuế GTGT có rủi ro cao (xem chi tiết tại Phụ lục 1)
2.3.3. Đặc điểm của kiểm soát rủi ro trong quản lý hoàn thuế giá trị gia tăng.
Nhìn chung, hoạt động KSRR trong hoàn thuế GTGT có vai trò:
- Tạo lập một cơ cấu kỷ cương trong toàn bộ quy trình.
- Giúp nhận biết, phân tích và lựa chọn được phương pháp tối ưu đối phó với các rủi ro trong việc thực hiện mục tiêu quản lý hoàn thuế.
- Tạo lập được một hệ thống thông tin và truyền đạt thông tin hữu hiệu trong quản lý hoàn thuế.
- Điều tiết, kiểm soát hoạt động hoàn thuế GTGT tuân thủ theo pháp luật về quản lý thuế, pháp luật về thuế GTGT và các văn bản quy định, quy trình quy chế nội bộ do Tổng cục Thuế, Cục Thuế ban hành (pháp chế).
- Kiểm tra, đánh giá thường xuyên và định kỳ giữa Kiểm tra nội bộ và bộ phận giải quyết hồ sơ hoàn thuế hoặc cấp trên với cấp dưới giúp phát hiện và ngăn chặn kịp thời những sai phạm do thiếu sót hoặc cố tình gây ra.
- Giúp đánh giá và khắc phục những bất cập cần bổ sung của hệ thống KSRR để ngăn chặn kịp thời rủi ro phát sinh, hoàn thành nhiệm vụ đề ra.
Dựa theo Báo cáo của COSO năm 2004 thì quản trị rủi ro trong công tác quản lý hoàn thuế cũng gồm 8 yếu tố cấu thành của KSRR. Tiếp cận theo lý thuyết về KSRR của của COSO năm 2004 giúp hệ thống hoá các nhân tố tác động đến hoạt động kiểm soát và đánh giá được vai trò của các nhân tố trong hiệu quả hoạt động KSRR trong khu vực công nói chung, và trong quản lý hoàn thuế GTGT nói riêng.
2.3.3.1. Nhân tố Môi trường kiểm soát.
Môi trường kiểm soát là nền tảng của KSRR, một môi trường kiểm soát hữu hiệu và hiệu quả sẽ giúp đạt được mục tiêu của tổ chức. Mục tiêu của hoạt động quản lý hoàn thuế GTGT là đảm bảo hoàn thuế đúng trường hợp đúng đối tượng, xác định số tiền thuế được hoàn đúng quy định, khắc phục nhược điểm thu trùng lắp chồng chéo qua nhiều khâu từ kinh doanh đến tiêu dùng, và phát hiện ngăn chặn những hành vi gian lận để chiếm đoạt tiền của Nhà nước thông qua việc khấu trừ và hoàn thuế GTGT.
CCT KV TU đã xây dựng mô hình cơ cấu tổ chức phù hợp với chức năng nhiệm vụ của cơ quan thuế các cấp. CCT KV TU là một đơn vị hành chính thuộc Cục Thuế tỉnh Bình Dương, Tổng Cục Thuế, Bộ Tài Chính, CCT KV TU cũng như các CCT huyện, thị xã khác, thực hiện và quản lý cần phải có sự kết hợp với UBND cùng cấp và các cơ quan chức năng. Ngoài chịu sự quản lý hệ thống ngành còn có sự quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ của các ngành, các cấp ủy và UBND các cấp. Vì vậy, lãnh đạo Chi cục Thuế luôn cân nhắc khi đưa ra chỉ đạo trong
thực hiện nhiệm vụ quản lý thuế, xác định được thái độ làm việc đúng đắn trong những tình huống phức tạp. Đối với những vấn đề vướng mắc liên quan đến chính sách thuế, lãnh đạo Chi cục Thuế xem xét những viện dẫn, kiến nghị của bộ phận tham mưu và các đội để từ đó đưa ra quyết định phù hợp với tình huống và tuân thủ quy định của pháp luật.
Người làm công tác hoàn thuế GTGT phải xác định mục tiêu phục vụ, đối tượng phục vụ chủ yếu của mình làm nền tảng cho chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp trong giải quyết công việc. Hoàn thuế GTGT là hoạt động đòi hỏi cán bộ thực hiện phải liêm chính, có tinh thần trách nhiệm cao, năng lực phải đảm bảo. Ngoài ra, thời gian vừa quan CCT đã tổ chức thực hiện có hiệu quả Quyết định số 2351/QĐ-TCT ngày 11/12/2015 của Tổng Cục Thuế về việc ban hành Quy trình tiếp nhận và giải quyết thủ tục hành chính thuế của NNT theo cơ chế một cửa tại CQT. Tại Chi cục Thuế, hầu hết cán bộ được phân giao công việc có đủ năng lực công tác, khi được tuyển dụng thì được phổ biến và được cập nhật thường xuyên về quy chế quy định của cơ quan. Trong thực thi công vụ thì có sự cam kết về đạo đức, tuân thủ quy trình công việc và có sự tự kiểm tra đối chiếu và giám sát lẫn nhau trong quá trình thực hiện công việc.
2.3.3.2. Nhân tố Thiết lập các mục tiêu
Nhằm đảm bảo quản lý sử dụng ngân sách nhà nước có hiệu quả đảm bảo phát triển xã hội của Ban Kinh tế Trung ương, trong đó có phương án về nguồn kinh phí chi hoàn thuế GTGT. Tổng cục Thuế đề nghị Cục Thuế phân tích các trường hợp hoàn xuất khẩu, hoàn dự án đầu tư theo cơ cấu thuế GTGT đầu vào đã nhập khẩu và thuế GTGT phát sinh trên địa bàn đối với số thuế đã hoàn. Theo chỉ đạo của cấp trên Ban lãnh đạo CCT KV TU chú trọng chỉ đạo xây dựng mục tiêu hoàn thuế đúng đối tượng, đúng trường hợp, tính toán số thuế được hoàn đúng quy định, yêu cầu cán bộ phụ trách báo cáo định kỳ công tác hoàn thuế theo những chuyên mục của Tổng cục Thuế, nhằm đảm bảo tính hữu hiệu trong công tác quản lý thu thuế GTGT và hoàn thu.
Chi cục Thuế luôn chú trọng giải quyết hoàn thuế đúng trình tự và thời gian quy định từ khâu lập, gửi hồ sơ, tiếp nhận, phân loại hồ sơ; xác định số thuế được hoàn cũng như quy định về việc bù trừ số thuế được hoàn với số thuế còn nợ; đề xuất, thẩm định, giám sát hồ sơ hoàn thuế; ban hành quyết định hoàn thuế; chi hoàn thuế cho Người nộp thuế và công khai thông tin giải quyết hoàn thuế theo Quy trình hoàn thuế GTGT thực hiện theo Quyết định số 905/QĐ-TCT ngày 01/7/2011.
2.3.3.3. Nhân tố Nhận dạng rủi ro tiềm tàng.
Việc nhận dạng các rủi ro có thể ảnh hưởng đến quản lý hoàn thuế GTGT là một bộ phận quan trọng của KSRR. Luật quản lý thuế được ban hành đã xác