Các Đặc Điểm Của Hoạt Động Quản Lý Thuế Giá Trị Gia Tăng

- Ban hành và hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về thuế, xây dựng chính sách, kế hoạch, chiến lược phát triển hệ thống thuế;

- Thanh tra, kiểm tra thuế, xử lý vi phạm pháp luật thuế;

- Áp dụng các biện pháp phòng chống trốn lậu thuế, chiếm đoạt tiền thuế của nhà nước, thực hiện cưỡng chế thuế;

- Tiếp nhận, xem xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo về thuế;

- Tổ chức thu thập, xử lý cung cấp thông tin về đối tượng nộp thuế;

- Ký kết hoặc tham gia các điều ước quốc tế về thuế;

- Tổ chức quản lý công tác nghiên cứu khoa học, đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý nghiệp vụ thuế….

Thứ hai, theo nghĩa hẹp, quản lý thuế là “quản lý hành chính nhà nước về thuế, việc tổ chức, quản lý, điều hành quá trình thu nộp thuế, bao gồm các hoạt động mang tính chất hành chính trong lĩnh vực quản lý thuế, là hoạt động chấp hành theo kế hoạch và trình tự nhất định được thực hiện bởi các cơ quan quản lý thuế”.

Theo cách hiểu này, quản lý thuế bao gồm các nội dung chủ yếu như sau:

- Xây dựng cơ chế quản lý thuế tạo cơ sở cho công tác quản lý thuế, trong đó xác định rõ chủ thể quản lý, đối tượng chịu sự quản lý;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

- Xác định rõ các quyền, nghĩa vụ cho đối tượng nộp thuế, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế, cán bộ công chức ngành thuế, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong quản lý thuế;

- Xác định các thủ tục và nội dung quản lý hành chính thuế như: đăng ký thuế, cấp mã số thuế, mua bán hóa đơn, chứng từ; kê khai thuế, nộp thuế; quyết toán thuế, miễn giảm thuế, hoàn thuế, xử phạt vi phạm thuế, cưỡng chế thuế, khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại tố cáo thuế;

Pháp luật về quản lý thuế Giá trị gia tăng tại Việt Nam - 3

- Xây dựng cơ chế quản lý thuế, quy trình nghiệp vụ quản lý thuế để áp dụng tại cơ quan quản lý thu thuế các cấp;

- Tổ chức bộ máy quản lý thuế, quy trình nghiệp vụ quản lý thuế để áp dụng tại cơ quan quản lý thu thuế các cấp;

- Tổ chức đội ngũ cán bộ, công chức thuế để thực hiện các nhiệm vụ quản lý thuế bằng các biện pháp quản lý hành chính thích hợp với diễn biến khách quan của quá trình sản xuất kinh doanh ở cơ sở và điều kiện quản lý kinh tế trong từng giai đoạn.

Luật quản lý thuế hiện hành của Việt Nam liệt kê các nội dung quản lý thuế tại Điều 3 (bao gồm đăng ký thuế, khai thuế, ấn định thuế, thủ tục hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế …). Từ điều luật này có thể thấy nhà lập pháp hiểu quản lý thuế theo nghĩa hẹp. Tùy thuộc vào mục đích của người nghiên cứu mà định nghĩa về quản lý thuế sẽ được tiếp cận ở những phạm vi khác nhau. Để phù hợp với pháp luật thực định ở nước ta cũng như phù hợp với mục đích của việc nghiên cứu, trong luận văn này, tác giả sử dụng khái niệm quản lý thuế theo nghĩa hẹp.

Với tính chất là một lĩnh vực quản lý chuyên ngành, quản lý thuế GTGT là một bộ phận của hoạt động quản lý thuế nói chung. Quản lý thuế GTGT được hiểu là hoạt động của các cơ quan hành chính thuế từ trung ương đến địa phương, bao gồm các hoạt độngtổ chức, chấp hành và điều hành các công việc liên quan đến quá trình thu, nộp thuế GTGT vào NSNN nhằm đạt được những mục tiêu nhất định.

Việc hiểu đúng bản chất của hoạt động quản lý thuế GTGT có ý nghĩa quan trọng trong việc thể chế hóa thành pháp luật những nội dung của hoạt động quản lý thuế, góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý thuế và đảm bảo thực hiện đúng kế hoạch huy động nguồn thu cho NSNN hàng năm.

1.1.3 Các đặc điểm của hoạt động quản lý thuế Giá trị gia tăng

Hoạt động quản lý thuế GTGT với tính chất là một bộ phận của hoạt động quản lý thuế, vừa mang những đặc điểm của hoạt động quản lý thuế nói chung và mang những đặc điểm riêng nhất định của lĩnh vực quản lý chuyênngành, cụ thể:

Thứ nhất, về bản chất quản lý thuế là một bộ phận của quản lý tài chính công. Vì vậy, quản lý thuế nói chung và quản lý thuế GTGT nói riêng được tiến hành trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc quản lý tài chính công và quản lý nguồn

thu của NSNN. Do thuế là khoản thu mang tính bắt buộc nên phương pháp quản lý thuế nói chung và quản lý thuế GTGT nói riêng thường được sử dụng chủ yếu là phương pháp quản lý hành chính.

Thứ hai, về chủ thể trong quản lý thuế GTGT

Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN, là tài sản quốc gia để phục vụ lợi ích cho toàn xã hội. Vì thế, tham gia quản lý thuế đồng thời là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Việc xác định cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tham gia hoạt động quản lý thuế trong Luật quản lý thuế 2006 thể hiện tư tưởng xã hội hóa hoạt động quản lý thuế của nhà làm luật. Tuy nhiên, trách nhiệm quản lý thuế trước hết thuộc về Nhà nước. Để đảm bảo thực thi trách nhiệm này, Nhà nước trao quyền hạn, trách nhiệm quản lý thuế cho Bộ Tài chính, mà trực tiếp là hệ thống cơ quan quản lý thuế gồm cơ quan thuế và cơ quan hải quan chịu trách nhiệm chính trong thực thi nhiệm vụ quản lý thuế. Đối tượng chủ yếu chịu sự quản lý thuế của nhà nước là người nộp thuế được xác định trong các Luật thuế cụ thể do nhà nước ban hành. Trong pháp luật về thuế GTGT, chủ thể chịu sự quản lý thuế của nhà nước bao gồm người chịu thuế và người nộp thuế. Xét trong mối quan hệ tay ba: cơ quan quản lý thuế, người chịu thuế và người nộp thuế thì người nộp thuế đóng vai trò trung gian thu thuế hộ cơ quan quản lý thuế rồi nộp vào NSNN. Cả ba loại chủ thể này đều có thể tham gia quan hệ quản lý thuế vừa với tư cách là chủ thể quản lý thuế, vừa là đối tượng bị quản lý, giám sát trong quá trình thực hiện pháp luật thuế.

Thứ ba, quản lý thuế cần các công cụ và phương tiện khác nhau, trong đó chủ yếu và quan trọng nhất là công cụ pháp luật. Pháp luật là chuẩn mực buộc các chủ thể phải tuân theo, dù là người thu thuế hay người nộp thuế. Ngoài ra, dư luận xã hội cũng đóng vai trò rất quan trọng. Do đó bên cạnh việc nâng cao hiệu lực của các quy định pháp luật thì tác động vào dư luận cũng là một giải pháp hiệu quả cần phải quan tâm nhằm nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật thuế của các chủ thể tham gia cũng như “cải thiện hình ảnh của thuế nói chung và công tác quản lý thuế nói riêng”.

Thứ tư, quản lý thuế thuộc lĩnh vực quản lý có tính kỹ thuật phức tạp, mang tính chuyên môn cao. Có nhiều yếu tố tác động và ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác quản lý thuế như: hệ thống pháp luật về quản lý thuế; ý thức chấp hành của người dân; trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ; công chức quản lý thuế; cơ sở vật chất của ngành thuế; hệ thống thể chế quản lý kinh tế, xã hội (quản lý đất đai, quản lý đăng ký kinh doanh, chế độ kế toán)…. Đặc điểm này đặt ra yêu cầu muốn nâng cao hiệu quả quản lý thuế cần có các giải pháp đồng bộ, quan tâm phát triển nhiều mặt thì Nhà nước mới có thể đạt được mục tiêu nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý thuế nói chung và quản lý thuế GTGT nói riêng.

Thứ năm, Chi phí quản lý hành chính thuế GTGT khá cao. Bởi lẽ thuế GTGT là loại thuế gián thu đánh trên bình diện rộng, hoạt động chịu thuế GTGT không chỉ bao hàm các hoạt động chịu thuế doanh thu mà còn bao gồm cả các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, hoạt động sản xuất các mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt… Mặt khác thuế GTGT lại vận hành theo cơ chế khấu trừ thuế, hoàn thuế vì vậy khối lượng công việc quản lý của cơ quan thuế sẽ tăng lên rất nhiều, bộ máy thuế phải được tăng cường, theo đó chi phí quản lý thuế GTGT sẽ tốn kém và phức tạp.

1.1.4 Sự cần thiết của hoạt động quản lý thuế Giá trị gia tăng

Thuế GTGT là một sắc thuế tiến bộ, có nhiều ưu điểm so với các loại thuế khác. Sau hơn 16 năm triển khai thực hiện, pháp luật thuế GTGT đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ, góp phần không nhỏ vào việc xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Nguồn thu từ thuế GTGT là nguồn thu quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu NSNN. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn còn các tồn tại tình trạng trốn thuế, làm giả hóa đơn chứng từ, gian lận hoàn thuế giá trị gia tăng, nợ đọng thuế, …

Thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Về phía người nộp thuế, do xuất phát từ những tính chất của thuế nên mặc dù ý thức được sự cần thiết và tính tất yếu của thuế nhưng thuế chưa bao giờ được người nộp thuế “cảm nhận như một thực tế dễ chịu”. Chính vì vậy, phía các cơ quan quản lý thuế

“thường phải đối mặt với những mối quan hệ khó điều chỉnh, thậm chí đôi khi nảy sinh xung đột”[3, 263]. Về phía người chịu thuế, thuế GTGT mang tính chất lũy thoái so với thu nhập nên không đảm bảo công bằng giữa các tầng lớp dân cư. Vì vậy, khi áp dụng thuế GTGT thường phải kết hợp với nhiều loại thuế trực thu khác như thuế thu nhập lũy tiến để điều tiết thu nhập của các đối tượng. Ngoài ra, điều kiện áp dụng thuế GTGT phải đạt đến một mức độ nhất định, phải đáp ứng được các tiêu chuẩn về kế toán, chế độ chứng từ hóa đơn và khả năng quản lý của các cơ quan tham gia quản lý, thu thuế GTGT.

Do đó có thể thấy quản lý thuế GTGT là hoạt động rất nhạy cảm, phức tạp, đòi hỏi phải đảm bảo lợi ích của tất cả các bên chủ thể. Xuất phát từ những lý do trên, việc đặt ra yêu cầu quản lý thuế GTGT là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp. Đặc điểm này cũng đặt ra yêu cầu các cơ quan quản lý thuế cần có những phương thức quản lý linh hoạt, tránh việc quản lý tùy tiện đề ra các quy định có tính áp đặt, độc đoán. [3, 263]‌

1.2. Pháp luật về quản lý thuế Giá trị gia tăng

1.2.1 Khái niệm pháp luật về quản lý thuế Giá trị gia tăng

Theo chủ nghĩa Mác – Lê nin, pháp luật là kiến trúc thượng tầng còn kinh tế- xã hội là cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, chính vì vậy mà các quốc gia trên thế giới có nền kinh tế-xã hội khác nhau dẫn tới hệ thống pháp luật cũng khác nhau. Pháp luật về thuế là một bộ phận quan trọng trong pháp luật của mỗi quốc gia và mỗi quốc gia lại có một cách xây dựng hệ thống pháp luật về thuế riêng để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của mình.

Thực tiễn lập pháp cho thấy, có hai xu hướng ban hành pháp luật về thuế khá phổ phiến. Một là, quy định tất cả các sắc thuế trong 1 bộ luật chung về thuế, gọi là bộ luật thuế vụ. Trong bộ luật này, các nhà làm luật vừa quy định về nội dung cụ thể của các loại thuế trong hệ thống thuế, vừa quy định về trình tự, thủ tục hành thu và cơ chế quản lý thu cũng như xử lý vi phạm và giải quyết các tranh chấp thuế. Hai là, mỗi loại thuế được ban hành bằng một đạo luật riêng, độc lập với nhau nhưng vẫn đảm bảo tính tương thích với nhau và đồng thời tách bạch các

quy định về quản lý thuế bằng một đạo luật riêng biệt so với các đạo luật thuế gọi là Luật quản lý thuế.

Ở Việt Nam hiện nay, các nhà làm luật áp dụng cách thức thứ hai, ban hành từng đạo luật riêng cho mỗi loại thuế và ban hành Luật quản lý thuế (2006) để quy định về trình tự, thủ tục thực hiện công tác quản lý thuế: quy định về thủ tục đăng ký thuế, cấp mã số thuế, thủ tục về mua hóa đơn, chứng từ; thủ tục về kê khai thuế, thủ tục hoàn thuế, thủ tục miễn giảm thuế; quy định những hành vi vi phạm và mức phạt vi phạm về thuế; quy định về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo; thanh tra thuế, ….

Xét về mặt lý thuyết, phápluật thuế bao gồm pháp luật vật chất (hay còn gọi là pháp luật nội dung) ghi nhận, phản ánh chính sách thuế và pháp luật thủ tục (pháp luật hình thức) quy định các vấn đề về quản lý thuế. Hay có thể thấy pháp luật thuế bao gồm hai bộ phận cơ bản là:

- Pháp luật về chính sách thuế, được quy định trong các luật thuế bao gồm các quy định về đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu thuế, căn cứ tính thuế, thời hạn nộp thuế và trường hợp đượchưởng ưu đãi… thực chất các quy định về chính sách thuế đã chỉ rõ trong mỗi loại thuế là ai phải nộp thuế, số thuế và thời gian nộp, những trường hợp ngoại lệ (trường hợp không áp dụng, trường hợp được hưởng ưu đãi, miễn giảm thuế…).

- Pháp luật về quản lý thuế được quy định cụ thể trong Luật quản lý thuế (Luật thủ tục), bao gồm các quy định về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của đối tượng nộp thuế, cơ quan quản lý thuế và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc thực hiện pháp luật thuế; các quy định về thủ tục hành chính thuế, cơ chế quản lý thuế, biện pháp quản lý thuế nhằm đảm bảo thực thi có hiệu quả pháp luật thuế như tuyên truyền, hướng dẫn, tư vấn giúp đỡ đối tượng nộp thuế, thanh tra, kiểm tra pháp luật thuế, các quy định về khiếu nại, tố cáo và giải quyết tranh chấp về thuế.

Như vậy, trong lĩnh vực thuế thì chính sách thuế được coi là các quy định nội dung, xác định mục tiêu, còn quản lý thuế bao gồm các quy định mang tính thủ tục nhằm thực hiện chính sách thuế. Tác giả đồng ý với quan điểm cho rằng: “Ranh giới giữa pháp luật quản lý thuế và pháp luật về nội dung các sắc thuế không hoàn toàn rạch ròi trong cách thể hiện. Điều này phụ thuộc vào kỹ thuật, trình độ lập pháp và sự lựa chọn của các nhà làm luật. Chẳng hạn: các quy định quản lý có tính chất đặc thù của từng sắc thuế có thể sẽ được đưa vào các văn bản pháp luật nội dung của sắc thuế đó, còn các quy định quản lý mang tính chất chung sẽ được đưa vào Luật Quản lý thuế. Điều này không phá vỡ nguyên tắc chung đồng thời đạt được hiệu quả cao.” [9, 51]

Từ những phân tích trên, có thể hiểu pháp luật về quản lý thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động quản lý thuế của Nhà nước (quan hệ quản lý trong việc thu nộp thuế cho NSNN của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối với đối tượng nộp thuế và các đối tượng khác có liên quan).

Pháp luật về quản lý thuế GTGTvới tư cách là một bộ phận của pháp luật quản lý thuế, là tổng hợp các quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động quản lý thuế GTGT của Nhà nướcnhằm đảm bảo tập trung đầy đủ, đúng hạn nguồn thu từ thuế GTGT vào NSNN.

1.2.2 Những nội dung cơ bản của pháp luật về quản lý thuế Giá trị gia tăng

Pháp luật quản lý thuế GTGT bao gồm các nội dung chủ yếu sau: (i) pháp luật về thủ tục hành chính thuế bao gồm: quản lý việc đăng ký thuế, kê khai thuế, tổ chức thu nộp thuế, thực hiện hoàn thuế GTGT và (ii) pháp luật về giám sát, đảm bảo sự tuân thủ pháp luật quản lý thuế, bao gồm pháp luật về quản lý thông tin người nộp thuế, pháp luật về thanh tra, kiểm tra thuế và xử lý vi phạm pháp luật thuế.

1.2.2.1 Pháp luật về thủ tục hành chính thuế

Pháp luật về thủ tục hành chính thuế bao gồm các nhóm quy phạm pháp luật sau: Nhóm quy phạm phápluật về đăng ký thuế GTGT;Nhóm quy phạm pháp luật về khai thuế GTGT; Nhóm quy phạm pháp luật về ấn định thuế GTGT; Nhóm quy phạm pháp luật về nộp thuế GTGT; Nhóm quy phạm pháp luật về hoàn thuế GTGT và Nhóm quy phạm pháp luật về xóa nợ tiền thuế, tiền phạt.

Thứ nhất, nhóm quy phạm pháp luật về đăng ký thuế Giá trị gia tăng

Đăng ký thuế là việc người nộp thuế thực hiện khai báo sự hiện diện của mình và nghĩa vụ phải nộp thuế với cơ quan quản lý thuế. Để xác định được đối tượng phải quản lý thuế GTGT, các chủ thể có hành vi kinh doanh phải đăng ký thuế với cơ quan quản lý thuế có thẩm quyền. Pháp luật về đăng ký thuế GTGT là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi đăng ký thuếcủa các chủ thể có trách nhiệm đăng ký thuế.

Sự kiện pháp lý làm phát sinh nghĩa vụ đăng ký thuế GTGT là sự ra đời, thay đổi hoặc chấm dứt của chủ thể kinh doanh. Thời điểm phát sinh nghĩa vụ này được xác định kể từ ngày đối tượng nộp thuế được cấp GCN đăng ký kinh doanh. [14, 94]

Khoảng thời gian mà đối tượng nộp thuế phải thực hiện nghĩa vụ đăng ký mã số thuế với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền được gọi là thời hạn thực hiện nghĩa vụ đăng ký thuế.

Kết quả của việc đăng ký thuế là mỗi chủ thể kinh doanh được cấp một mã số thuế. Về nguyên tắc, mã số thuế được cấp duy nhất cho một chủ thể nộp thuế và sử dụng suốt quá trình tồn tại của chủ thể nộp thuế, phục vụ cho việc nhận diện chủ thể nộp thuế. Mã số thuế giúp cơ quan quản lí thực hiện hoạt động quản lí thuế trên phạm vi toàn lãnh thổ, trong hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường và quản lí thuế đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Việc quản lí thuế theo mã số thuế giúp cơ quan có thẩm quyền giám sát về thuế của chủ thể nộp thuế, theo dõi các vấn đề phát sinh liên quan đến sử dụng chứng từ hóa đơn. Trong

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 25/12/2022