Bất Cập Trong Xây Dựng Thị Trường Có Tổ Chức

CTCK nhằm để xác định số lượng cổ phần chuyển nhượng có nằm trong phần bị khống chế chuyển nhượng không, mặt khác cũng xác định số lượng cổ phần có thuộc sở hữu của người bán không? Thủ tục bao gồm giấy đăng ký chuyển nhượng cổ phần, bản sao giấy chứng minh nhân dân, sổ cổ đông của người bán. CTCK này sẽ xác nhận đã làm thủ tục chuyển nhượng cổ phiếu và hẹn ngày để người mua lên nhận sổ.

Trường hợp mua bán trực tiếp thì hai bên viết giấy tờ mua bán và có xác nhận của Hội đồng quản trị thì việc mua bán này mới hoàn tất.

Như vậy, việc chuyển nhượng trên thị trường CKCNY hiện nay được thực hiện theo qui định về quyền sở hữu tài sản, hợp đồng mua bán, nguyên tắc mua bán của Bộ luật dân sự 2005 về. Người nhận chuyển nhượng chỉ được coi là chủ sở hữu cổ phần sau khi đã việc sở hữu cổ phần đó được đăng kí vào sổ đăng ký cổ đông của công ty. Luật Doanh nghiệp năm 2005 có qui định giao cho Chính phủ hướng dẫn việc chào bán cổ phần riêng lẻ, tuy nhiên mới ở hình thức Dự thảo nên chưa có qui định cụ thể về vấn đề này.

Tùy thuộc vào loại cổ phiếu mà cổ đông nắm giữ mà pháp luật sẽ đảm bảo các quyền sau nằm trong quyền sở hữu của nhà đầu tư:

- Quyền tham dự và phát biểu trong các đại hội đồng cổ đông và thực hiện quyền biểu quyết trực tiếp hoặc thông qua đại diện được ủy quyền.

- Quyền được nhận cổ tức với mức theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông.

- Quyền được ưu tiên mua cổ phần mới chào bán tương ứng với tỷ lệ cổ phần phổ thông của từng cổ đông trong công ty.

- Ngoài ra, còn có quyền kiểm tra thông tin liên quan đến cổ đông trong danh sách cổ đông đủ tư cách tham gia đại hội đồng cổ đông và yêu cầu sửa đổi các thông tin không chính xác, quyền được nhận một phần tài

sản còn lại tương ứng với số cổ phần góp vốn vào công ty trong trường hợp công ty giải thể…

Tuy nhiên, trên thực tế một số doanh nghiệp hoạt động dựa trên Luật Doanh nghiệp năm 2005 và Luật Chứng khoán năm 2006 thì còn phải chịu điều chỉnh của Luật chuyên ngành. Ví dụ các tổ chức tín dụng, theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, mỗi khi tổng mức chuyển nhượng cổ phần có ghi tên của một ngân hàng thương mại cổ phần quá 20% vốn điều lệ phải xin phép Ngân hàng nhà nước. Như vậy, vô hình chung trong thời gian trình Ngân hàng Nhà nước chấp thuận thì quyền chuyển nhượng của cổ đông bị hạn chế vì ngân hàng thương mại đó chưa xác nhận thủ tục.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.

2.2.3. Bất cập trong xây dựng thị trường có tổ chức

Trên thế giới hiếm thấy cơ quan quản lý TTCK nào nằm trong một bộ chủ quản, mà là họ thường đứng như một tổ chức độc lập như Mỹ, Nhật Bản. Sau gần 8 năm hoạt động, TTCK đã đủ rộng và vì vậy, cần nhanh chóng tách UBCKNN ra khỏi Bộ Tài chính để tạo quyền chủ động trong điều hành thị trường.

Pháp luật về quản lý giao dịch chứng khoán chưa niêm yết ở Việt Nam - 7

UBCKNN hiện chưa có quyền lực đủ mạnh để điều hành thị trường. Khi TTCKCNY giảm mạnh, UBCKNN chỉ biết kiến nghị và chờ đợi sự chỉ đạo từ cơ quan chủ quản, điều này khiến UBCKNN rơi vào tình thế bị động, không đáp ứng được sự biến động nhanh nhạy của thị trường [21].

Mặc dù theo kế hoạch thị trường CKCNY phải được điều chỉnh bằng văn bản pháp luật nhưng vẫn còn một số khó khăn:

Một là, trong thời điểm hiện nay, cơ chế chính sách vĩ mô hiện chưa có chính sách quản lý toàn diện và thống nhất các thị trường tiền tệ, vốn và bất động sản. Trong một số giai đoạn các ngân hàng huy động tiền gửi với mức lãi suất cao khiến người dân chọn hình thức gửi tiền vào ngân hàng mà

không đầu tư vào thị trường chứng khoán. Việc nâng mức lãi suất như trên chủ yếu là do sự cạnh tranh về huy động vốn của các ngân hàng chứ không xuất phát từ chủ trương, đường lối điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng Nhà nước.

Thị trường bất động sản hiện nay chưa được quản lý tốt, các hoạt động đầu cơ vào thị trường này gây khó khăn cho hoạt động của thị trường chứng khoán nói chung và việc thành lập thị trường OTC nói riêng.

Hai là, đối với việc xây dựng thị trường OTC, đặc biệt là đối với một nước có cơ sở hạ tầng kém phát triển như ở Việt Nam hiện nay thì khó khăn chính là đảm bảo tính hiện đại của thị trường. Thị trường giao dịch OTC đòi hỏi phải có một mạng lưới viễn thông tương xứng, một cơ sở hạ tầng kỹ thuật cao, do đó chi phí xây dựng và chi phí vận hành thị trường ban đầu lớn thì mới đảm bảo phát huy những đặc điểm ưu việt của thị trường. Nếu chỉ xây dựng một thị trường OTC bán thủ công, phù hợp với khả năng vận hành và qui mô thị trường hiện tại thì không những không khai thác, phát huy những điểm ưu việt của thị trường mà còn gặp phải những khó khăn trong việc quản lý giám sát hoạt động thị trường, khó đảm bảo thị trường phát triển ổn định, lành mạnh công khai, công bằng và bảo vệ người đầu tư.

Ba là, thị trường OTC là một hình thức hoạt động mới mẻ và phức tạp, đòi hỏi các đối tượng tham gia thị trường phải có sự chuẩn bị chu đáo. Đặc biệt với mô hình có sử dụng nhà tạo lập thị trường đòi hỏi các công ty chứng khoán phải có năng lực tài chính cao và trình độ kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn tốt thì mới đảm bảo được hiện quả hoạt động cho thị trường.

Bốn là, với những khó khăn về mặt pháp lý như các quy định pháp lý khác nhau đối với các loại doanh nghiệp khác nhau, các chuẩn mực kế toán, kiểm toán, quản trị công ty, thuế đối với các doanh nghiệp và cá nhân… dù đã được bổ sung nhưng vẫn chưa thể đáp ứng được yêu cầu của thị trường.

Năm là, những khó khăn từ phía công ty như một số doanh nghiệp Việt Nam không có sự hiểu biết đầy đủ về thị trường chứng khoán, chưa nhận biết đầy đủ lợi ích của việc niêm yết hoặc không muốn công khai báo cáo tài chính ra công chúng nên không muốn tham gia thị trường.

Mặt khác, bộ máy lãnh đạo công ty còn quen nếp điều hành cũ, họ e ngại khi tham gia thị trường chứng khoán sẽ chịu nhiều sức ép hơn từ phía cổ đông, thậm chí mất quyền kiểm soát công ty. Trong khi đó, cổ đông hiện tại ở nhiều công ty cổ phần chưa niêm yết thì chưa nhận thức rõ quyền của mình đối với công ty nên không tạo sức ép buộc công ty phải niêm yết.

Sáu là, khó khăn về mặt xã hội hóa, hiện nay nhiều công ty vẫn có thói quen truyền thống là huy động vốn qua tín dụng ngân hàng hoặc vay gia đình, bạn bè hơn là huy động vốn qua thị trường chứng khoán

Trong điều kiện kinh tế phát triển cao, nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển lớn đòi hỏi phải phát triển thị trường CKCNY trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế. Để đạt được mục tiêu theo lộ trình đã đặt ra thì đồng thời tạo ra khuôn khổ pháp luật nhằm quản lý thị trường hoạt động có hiệu quả và lành mạnh, đáp ứng điều kiện hội nhập đòi hỏi cần phải hoàn chỉnh thể chế về chứng khoán và TTCK trong đó hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho thị trường CKCNY là một yêu cầu hết sức quan trọng. Hệ thống pháp luật từng bước được hoàn thiện sẽ tạo ra một môi trường pháp lý hết sức thuận lợi cho nền kinh tế nói chung trong đó có sự phát triển của thị trường chứng khoán nói riêng.

2.3.4. Bất cập trong quản lý thu thuế


Dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Thuế thu nhập cá nhân (có hiệu lực từ ngày 1/1/2009) đã được phê chuẩn. Tuy nhiên, loại thuế loại thuế chứng khoán gây không ít băn khoăn cho nhà đầu tư.

Theo Dự thảo nghị định, tất cả cổ phiếu của công ty đại chúng phải lưu ký tại TTLKCK. Thông qua TTLKCK, cơ quan thuế sẽ thu thuế mỗi lần chuyển nhượng tức là khấu trừ tại doanh nghiệp khi làm thủ tục chuyển nhượng. Cơ sở để xác định giá tính thuế là lấy giá bán trừ đi giá cổ phiếu đấu giá bình quân của doanh nghiệp nếu doanh nghiệp đó thực hiện đấu giá hoặc dựa theo giá trị thị trường của cổ phiếu đó tại thời điểm chuyển nhượng.

Dự thảo quy định, chuyển nhượng chứng khoán bao gồm việc chuyển nhượng cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai được thực hiện tại sàn giao dịch (tập trung hoặc phi tập trung) và chuyển nhượng dưới hình thức riêng lẻ.

Tuy nhiên trên thực tế, đối với cổ phiếu chưa niêm yết, ngoài số công ty lưu ký cổ phiếu tại TTLKCK, còn hàng ngàn công ty cổ phần khác có cổ phiếu đang lưu hành tự do sẽ rất khó quản lý việc chuyển nhượng cổ phiếu của nhà đầu tư để thu thuế. Để có thể quản chung chung giá tính lý số thuế này là vô cùng khó khăn, nhưng nếu không thể quản lý thì không đảm bảo đối xử công bằng giữa các NĐT.

Rõ ràng, trong Luật ghi thuế là theo giá thị trường, còn giá thị trường như thế nào do thị trường định đoạt và do các chuyên gia quyết định trong từng thời điểm. Nguyên tắc thu thuế dựa trên phát sinh theo giá giao dịch thật, còn thật như thế nào thì văn bản cũng không thể cụ thể hoá. Đây là điều gây bất cập cho cả nhà quản lý và nhà đầu tư trên thị trường.

Theo Dự thảo chuyển nhượng chứng khoán chào bán riêng lẻ, giá chuyển nhượng được xác định tại giá hợp đồng chuyển nhượng, trường hợp giá chuyển nhượng hoặc giá vốn thấp hơn giá thị trường thì thu nhập chịu thuế được xác định dựa theo chứng khoán cùng loại được mua bán thành công trên thị trường tại thời điểm chuyển nhượng. Thuế thu nhập cá nhân đối

với chuyển nhượng chứng khoán riêng lẻ được tính bằng thu nhập chịu thuế nhân với thuế suất 20%.

Cách xác định thu nhập chịu thuế trong dự thảo mặc dù phù hợp với nguyên tắc xác định thu nhập chịu thuế của thuế trực thu, nhưng dường như chưa cụ thể, thiếu chặt chẽ, dễ xảy ra tình trạng "mặc cả" giữa cơ quan thuế và người nộp thuế vì rất khó xác định cá nhân có phải chi phí trả lãi tiền vay để đầu tư chứng khoán hay không, cá nhân vay ngân hàng hay vay bên ngoài để đầu tư chứng khoán… Ngoài ra, chi phí giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng là chi phí hợp lý, song thường không có hóa đơn, chứng từ nên rất khó xác định.

Có nhiều ý kiến cho rằng, vẫn có thể xác định giá cổ phiếu trên thị trường OTC bằng cách: quy đổi tương đương với giá giao dịch trên thị trường chính thức. Hai mã chứng khoán có cùng ngành nghề hoặc có nhiều điểm tương đồng thì lấy giá thị trường chính thức quy đổi.

Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng có hai mã chứng khoán tương đồng trên thị trường OTC và thị trường niêm yết để quy đổi. Hơn nữa, nếu làm theo cách này sẽ rất thiếu khoa học do giá trị sổ sách, thương hiệu, tính thanh khoản… của hai doanh nghiệp khác nhau là rất khác nhau, nên giá cổ phiếu cũng sẽ khác xa nhau.

Tóm lại, cần phải có những qui định thống nhất về giá thị trường trong việc tính thuế cho cả hai thị trường CKNY và CKCNY nhằm thực hiện một chế độ kế toán thuế cho phù hợp và đồng bộ.

Chương 3‌

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH

VỀ QUẢN LÝ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN CHƯA NIÊM YẾT


3.1. ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT


Ở nước ta, để phát triển một thị trường OTC có tổ chức, có trật tự và bảo đảm quyền lợi của NĐT thì điều vô cùng quan trọng là trước tiên phải đưa ra được các định hướng, nguyên tắc cơ bản đúng đắn mang tính định hướng việc phát triển thị trường nếu không sẽ dẫn đến việc phát triển tự phát không đảm bảo một thị trường hiệu quả và không đáp ứng được mục tiêu thị trường đặt ra. Trong điều kiện hiện nay ở nước ra, việc xây dựng và phát triển thị trường OTC cần phải dựa trên các định hướng sau:

Thứ nhất: Thị trường OTC được tổ chức với mục đích thu hẹp thị trường giao dịch chứng khoán tự do - nơi những giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư gặp rủi ro lớn do không được cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực về loại chứng khoán mà mình giao dịch và khả năng giả mạo chứng khoán, việc thanh toán chậm trễ thậm chí không hoàn tất được thanh toán giao dịch do lừa đảo là khá lớn.

Đây là một trong những mục tiêu cũng như yêu cầu lớn nhất khi tổ chức thị trường OTC. Thực tiễn thời gian qua hoạt động giao dịch chứng khoán trên thị trường tự do, chủ yếu là thị trường cổ phiếu cho thấy nhà đầu tư không được cung cấp thông tin một cách chính thức về tổ chức phát hành, không được đối xử bình đẳng trong việc cung cấp dịch vụ môi giới, chứng khoán không được lưu ký tập trung nên thời gian thanh toán kéo dài, tính thanh khoản thấp.

Thứ hai: Thị trường OTC là một bộ phận thống nhất của thị trường chứng khoán có tổ chức của Việt Nam do Nhà nước tổ chức, quản lý và giám

sát hoạt động, không theo mô hình tổ chức tự quản. Bên cạnh thị trường giao dịch tập trung, thì việc tổ chức thị trường OTC tại TTGDCK như một bước đi hoàn chỉnh tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán Việt Nam với các khu vực thị trường dành cho các loại chứng khoán khác nhau.

Thứ ba: Theo xu hướng chung trên các thị trường chứng khoán ở các nước trên thế giới hiện nay, thị trường OTC của Việt Nam cần được tổ chức các phương thức giao dịch hỗn hợp không chỉ có phương thức giao dịch dựa trên cơ sở nhà tạo lập thị trường như thị trường OTC ban đầu của Hoa Kỳ nhằm mục tiêu là tạo ra tính thanh khoản cao nhất cho các chứng khoán được giao dịch trên thị trường này cũng như thu hút các chứng khoán đưa vào giao dịch tại thị trường OTC có tổ chức. Việc tổ chức giao dịch hỗn hợp sẽ thảo bỏ được tính cứng nhắc trong việc đáp ứng nhu cầu của thị trường, giải quyết được vướng mắc hiện nay đang gặp phải, đó là dịch vụ giao dịch mà chúng ta cung cấp chưa đáp ứng được cái mà thị trường cần.

Thứ tư: Thị trường OTC chỉ hoạt động và phát triển tốt khi nó chứng minh được hiệu quả và tính hơn hẳn so với giao dịch tại thị trường tự do do đó hoạt động giao dịch, công bố thông tin, giám sát và thanh toán của thị trường OTC phải được thực hiện trên cơ sở tự động hóa hoàn toàn nhằm giảm thiểu thời gian, chi phí tiếp cận thị trường của nhà đầu tư cũng như chi phí giao dịch của các thành viên giao dịch là các công ty môi giới chứng khoán. Thị trường OTC đươc tổ chức để đáp ứng nhu cầu giao dịch chứng khoán do công ty phát hành thường là doanh nghiệp vừa và nhỏ, lịch sử hoạt động kinh doanh chưa dài, tính đại chúng kém hơn so với các doanh nghiệp niêm yết trên Sở giao dịch, do đó tự động hóa giao dịch và các dịch vụ liên quan trên thị trường OTC sẽ dẫn đến chi phí giao dịch thấp cho cả NĐT lẫn công ty môi giới chứng khoán, rút ngắn thời gian cho mỗi giao dịch và tác dụng tiếp theo của điều đó là thu hút thêm NĐT tham gia thị trường.

Xem tất cả 97 trang.

Ngày đăng: 25/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí