tới đời sống của họ. Chỉ trong một số trường hợp nhất định buộc người tiêu dùng phải có hóa đơn GTGT để xác lập quyền sở hữu đối với tài sản cần đăng ký với cơ quan nhà nước do yêu cầu của quản lý như: đăng ký xe mô tô, ô tô… để tiến hành các thủ tục đăng ký thì doanh nghiệp bán hàng hóa buộc phải lập hóa đơn GTGT giao cho người tiêu dùng. Trong trường hợp này, để giảm số thuế đầu ra thì doanh nghiệp buộc phải xác lập hóa đơn GTGT có giá thanh toán thấp hơn giá bán trên thực tế. Và số tiền chênh lệch giữa giá bán hàng hóa, dịch vụ trên hóa đơn với giá bán thực tế doanh nghiệp bỏ ngoài sổ sách kế toán.
Hạch toán kế toán và kê khai thuế sai quy định bằng cách lập hóa đơn chênh lệch giữa liên 1 và liên 2.
Theo quy định của pháp luật, doanh nghiệp khi lập hóa đơn GTGT phải sử dụng giấy than để đảm bảo nội dung các liên là như nhau để làm cơ sở pháp lý cho hành vi mua bán hàng và phục vụ cho công tác quản lý doanh nghiệp của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, doanh nghiệp thường tạo sự chênh lệch giữa liên 1 và liên 2 khi lập hóa đơn GTGT nhằm: một mặt che giấu doanh thu tính thuế mặt khác hạch toán tăng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ.
Các kiểu hạch toán sai chế độ kế toán rất đa dạng. Đó có thể là hạch toán sai tài sản kế toán. Ví dụ, thay vì phải hạch toán vào tài khoản 511 thì kế toán doanh nghiệp lại hạch toán vào tài khoản 338, 138… Các dạng hạch toán sai này chủ yếu là hạch toán toàn bộ chi phí mua sắm tài sản cố định, xây dựng cơ bản; đưa khấu hao tài sản phúc lợi vào khấu hao tài sản cố định… Và hành vi này chỉ bị phát hiện thông qua kiểm tra báo cáo quyết toán thuế hoặc qua thanh tra tại cơ sở kinh doanh. Để phát hiện được hành vi này, cán bộ thanh tra, kiểm tra phải vững vàng về nghiệp vụ kế toán và trực giác tốt khi đánh giá báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
Tạo giao dịch mua, bán hàng giả mạo.
Tạo giao dịch mua hàng là hành vi trốn thuế khá phổ biến hiện nay. Thực tế, doanh nghiệp không có khoản chi này nhưng đã tự tạo ra chứng từ để hợp pháp hóa khoản chi không có thực, vì thế trong hoạt động tài chính kế toán người ta vẫn thường gọi nó với cái tên “chi khống”. Chi khống được thao tác bằng việc lập những bảng kê thanh toán giả mạo với chữ ký và hợp đồng lao động giả mạo (người lao động không có thật hoặc có thật nhưng không hề làm việc cho doanh nghiệp) và mua hóa đơn GTGT của doanh nghiệp khác. Bằng việc làm này, doanh nghiệp không chỉ trốn thuế GTGT thông qua việc khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào mà còn trốn thuế thu nhập doanh nghiệp. Chưa kể, nhiều doanh nghiệp bán hóa đơn GTGT còn sử dụng hóa đơn khách hàng không lấy để bán cho người có nhu cầu mua hóa đơn GTGT. Cụ thể, các trường hợp xảy ra thường thấy là: sử dụng hóa đơn GTGT bất hợp pháp không do Bộ Tài chính phát hành hoặc tự in hóa đơn không được sự cho phép của Tổng Cục thuế; Mua ít hàng nhưng viết khống hóa đơn lên nhiều lần để hạch toán tăng chi phí; Hoặc sử dụng hóa đơn mua hàng mua cho cá nhân, không phục vụ kinh doanh đưa vào chi phí.
Cùng với thành lập các doanh nghiệp “ma”, thủ đoạn mua hàng hóa giả mạo thông qua hành vi mua hóa đơn có mối liên hệ mật thiết với nhau. Doanh nghiệp “ma” được thành lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp nhưng trên thực tế không có hoạt động sản xuất kinh doanh, chỉ nhằm mục đích đủ điều kiện để được phát hành hóa đơn GTGT. Từ đó, bán hóa đơn GTGT cho các đối tượng khác hoặc trung gian lập hóa đơn mua bán khống, lập hồ sơ giả mạo để xin hoàn thuế. Mức độ thiệt hại của hóa đơn GTGT trôi nổi là không thể kiểm soát được, bởi nó hoàn toàn phụ thuộc vào số chi phí đầu vào cần hợp thức hóa của doanh nghiệp mua bán hóa đơn.
Hiện nay, hình thức gian lận này ngày càng tinh vi hơn và có hệ thống.
Các doanh nghiệp “ma” có hình thức chủ yếu dưới dạng công ty TNHH hoặc doanh nghiệp tư nhân với ngành nghề đăng ký kinh doanh chủ yếu là thương mại, dịch vụ tổng hợp… vốn pháp định không lớn và không thuộc những ngành nghề kinh doanh có điều kiện hay chứng chỉ hành nghề. Doanh thu của các doanh nghiệp khá lớn nhưng chênh lệch giữa thuế GTGT đầu vào với thuế GTGT đầu ra ít nên kê khai thấp thậm chí có thuế GTGT phải nộp âm nhiều kỳ nhưng không làm thủ tục xin hoàn thuế…
Báo mất hóa đơn liên 2 của hóa đơn GTGT để bán hàng trốn thuế.
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Niệm Và Nội Dung Pháp Luật Về Hóa Đơn Giá Trị Gia Tăng
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Việc Thực Hiện Pháp Luật Hóa Đơn Giá Trị Gia Tăng
- Thực Trạng Pháp Luật Về Hóa Đơn Giá Trị Gia Tăng Ở Việt Nam Hiện Nay
- Tình Hình Thực Hiện Công Tác Xác Minh Hóa Đơn Tại Cục Thuế Thành Phố Hà Nội Giai Đoạn 2011 - 2013
- Pháp luật về hóa đơn giá trị gia tăng ở Việt Nam - 8
- Yêu Cầu Và Hướng Hoàn Thiện Pháp Luật Về Hóa Đơn Giá Trị Gia Tăng
Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.
Doanh nghiệp báo mất hóa đơn và chấp nhận chịu nộp phạt mức thấp nhất đối với hành vi này là 2 triệu đồng. Tuy nhiên, thực tế hóa đơn GTGT đó có thể được lập với số tiền gấp rất nhiều lần thậm chí cả trăm lần nếu như người sử dụng nó với mục đích để được khấu trừ hay hoàn thuế.
Khai sai chủng loại hàng hóa.
Với sự gia tăng của khối lượng hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong khi nguồn nhân lực của cơ quan hải quan có hạn và thực hiện yêu cầu đơn giản, nhanh chóng, thuận lợi trong thủ tục nên cơ quan hải quan chỉ tiến hành kiểm tra thực tế hàng hóa khi có nghi vấn hoặc có mức độ rủi ro cao. Do đó, việc phân loại và áp mã hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu để tính thuế phụ thuộc rất lớn vào mức độ tuân thủ của người nộp thuế. Thực tế, qua thời gian nhiều chủ hàng đã lợi dụng các vấn đề trên để thực hiện gian lận thuế nhập khẩu bằng việc khai báo sai tên hàng, sai mã số hàng hóa. “Theo Thống kê của Tổng Cục Hải quan, tính trung bình hàng năm có khoảng 10.000 mẫu hàng hóa được phân tích, phân loại. Trong đó, mẫu khai đúng chiếm khoảng 47% sai khoảng 53% giảm thuế khoảng 7,4%” [30]. Các hành vi thường gặp là:
Thứ nhất, cố tình khai sai tên hàng hóa, chủng loại hàng hóa nhập khẩu nhằm mục đích giảm số thuế phải nộp. Chủ yếu là khai sai mã hàng có thuế suất cao sang mã hàng có thuế suất thấp. Nhiều trường hợp người nộp thuế lợi
dụng sự phức tạp của hàng hóa là các hỗn hợp, các hóa chất khó phân biệt, xác định bằng cảm quan để khai theo hướng có lợi cho mình.
Thứ hai, người nộp thuế gian lận thuế bằng cách nhập khẩu hàng hóa là sản phẩm hoàn chỉnh nhưng lại tháo bớt một số bộ phận để biến thành hàng hóa chưa hoàn thiện nhằm hưởng thuế suất thấp của hàng hóa linh kiện.
Giả mạo mục đích xuất, nhập khẩu để được hưởng ưu đãi thuế.
Chứng từ được các chủ hàng giả mạo với mục đích gian lận thường là các chứng từ nộp thuế (nhằm giải tỏa cưỡng chế thuế của cơ quan hải quan) hoặc các hồ sơ hải quan (để hợp thức hóa các lô hàng nhập lậu). Trong đó, các trường hợp phổ biến thường là gian lận thuế qua việc thực hiện chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư; gian lận qua việc lợi dụng chính sách đối với hàng gia công; gian lận thông qua hình thức tạm nhập tái xuất và tạm xuất tái nhập…
Theo thống kê của Hải quan, trong những năm qua đã có 500 ô tô nhập vào Việt Nam theo hình thức tạm nhập tái xuất nhưng đến nay chỉ có 100 chiếc đã làm thủ tục tái xuất và được nhập khẩu trở lại. Nghĩa là, còn khoảng 400 chiếc chưa làm thủ tục tái xuất và vẫn lưu hành trong nội địa nên gây thất thu số tiền thuế rất lớn cho nhà nước.
Những liệt kê, mô tả nêu trên chưa phải là tất thảy các hành vi vi phạm của đối tượng nộp thuế về sử dụng hóa đơn GTGT song là những trường hợp rất điển hình và phổ biến xuất hiện trong tiến trình vận hành nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Những quy định pháp luật về hóa đơn GTGT trong sử dụng hiện nay đang tạo ra nhiều khoảng trống khiến các doanh nghiệp lợi dụng để trục lợi. Để ngăn chặn các hành vi vi phạm về sử dụng hóa đơn GTGT rất cần hoàn thiện các quy định pháp luật để công tác quản lý nhà nước về hóa đơn nói chung và hóa đơn GTGT nói riêng đạt được những kết quả đáng kể.
2.2.4. Thực trạng quản lý hóa đơn giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay Thực trạng quản lý hóa đơn GTGT ở Việt Nam hiện nay là vấn đề
cần được nhìn nhận, đánh giá từ hai góc độ của: Cơ quan nhà nước và doanh nghiệp.
2.2.4.1. Thực trạng quản lý hóa đơn GTGT của cơ quan nhà nước Quản lý hóa đơn GTGT của nhà nước là chuỗi các hoạt động của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền nhằm kiểm soát các hoạt động về: tạo, phát hành, sử dụng và xác minh, thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm pháp luật về hóa đơn GTGT.
Thứ nhất, thực trạng quản lý việc tạo, phát hành hóa đơn GTGT
Cơ quan thuế là cơ quan nhà nước có chức năng quản lý việc tạo, phát hành hóa đơn GTGT. Sự thay đổi của các quy định về tạo, phát hành hóa đơn đã có tác động nhất định tới hoạt động quản lý của cơ quan thuế. Việc tạo, phát hành hóa đơn GTGT theo quy định tại Nghị định số 89/2002/NĐ-CP không khiến cơ quan thuế gặp khó khăn trong quản lý do đối tượng đủ điều kiện tạo, phát hành hóa đơn có số lượng ít và nhà nước có vai trò chính trong việc hình thành các loại hóa đơn lưu thông trong quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Số lượng doanh nghiệp được thành lập lớn cùng với sự ra đời của Nghị định số 51/2010/NĐ-CP đã khiến cho các nhà quản lý gặp nhiều lúng túng khi hàng loạt các vấn đề pháp lý mới về hóa đơn phát sinh. Trước diễn biến mới, Tổng Cục thuế đã ban hành quy trình quản lý hóa đơn kèm theo Quyết định 2423/2010/QĐ-TCT ngày 23 tháng 11 năm 2010 của Tổng Cục thuế về việc ban hành quy trình quản lý hóa đơn (sau đậy gọi tắt là Quy trình 2423). Quy trình 2423 được thiết lập nhằm hướng dẫn các bước cụ thể, là căn cứ giúp cơ quan thuế quản lý hóa đơn dễ dàng hơn.
Bảng 2.1 cho thấy, hoạt động quản lý việc tạo, phát hành hóa đơn của Cục thuế thành phố Hà Nội được thực hiện thông qua hệ thống quản lý ấn chỉ
(QLAC) theo quy trình: nhận thông báo phát hành hóa đơn (đúng quy định) của các doanh nghiệp gửi rồi nhập thông tin vào hệ thống dữ liệu QLAC để tổng hợp, theo dõi. Giai đoạn 2011 – 2013, về cơ bản các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội đã thực hiện ra thông báo phát hành hóa đơn theo quy định với tỷ lệ tương đối cao. Tuy nhiên, số lượng thông báo phát hành hóa đơn được nhập vào hệ thống QLAC còn ở mức rất thấp chỉ chiếm hơn 30% trong tổng số các doanh nghiệp đã ra thông báo phát hành. Một vài nguyên nhân được đưa ra để lý giải cho hiện tượng này là: Các thông báo phát hành do người nộp thuế gửi tới cơ quan thuế thường mắc nhiều lỗi. Trong số 80% doanh nghiệp gửi hồ sơ thông báo phát hành hóa đơn qua mạng thì chỉ có 50% khai báo đúng để phần mềm QLAC có thể nhận vào được, số còn lại phần mềm QLAC có nhận nhưng ở trạng thái treo không liên kết được dữ liệu. Tình huống này, cơ quan thuế phải yêu cầu người nộp thuế điều chỉnh, bổ sung thông tin và trực tiếp chỉnh sửa thủ công bằng tay nên mất nhiều thời gian. Nguyên nhân được đánh giá là phần mềm mới được đưa vào sử dụng nên khiến cho đối tượng nộp thuế gặp nhiều lúng túng, bỡ ngỡ trong thao tác. Cũng có trường hợp cơ quan thuế yêu cầu điều chỉnh nhưng người nộp thuế không điều chỉnh kịp thời theo đúng thời gian yêu cầu làm ảnh hưởng tới công tác chuẩn hóa dữ liệu.
Thứ hai, thực trạng quản lý việc sử dụng hóa đơn GTGT
Thực trạng quản lý việc sử dụng hóa đơn GTGT là vấn đề khiến cho cơ quan quản lý thuế gặp không ít khó khăn. Để quản lý hóa đơn sử dụng, cơ quan thuế yêu cầu các doanh nghiệp phải thực hiện báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn theo các mẫu theo Quy trình 2423.
Nhìn bảng 2.2 có thể thấy, từ năm 2011 đến 2013 lượng báo cáo tình hình sử dụng có xu hướng tăng nhưng do những nguyên nhân khác quan và chủ quan mà số báo cáo nhập vào hệ thống dữ liệu QLAC không đạt kết quả
cao. Việc đưa tình hình sử dụng hóa đơn vào hệ thống QLAC theo dõi tổng hợp, phục vụ cho cả công tác kiểm tra. Cán bộ thuế thực hiện đối chiếu giữa thông báo phát hành hóa đơn và báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn qua các năm để phát hiện vi phạm khi có dấu hiệu. Tuy nhiên, hoạt động này trên thực tế cũng chưa đạt hiệu quả cao những vi phạm thường chỉ được phát hiện khi tiến hành kiểm trả tại trụ sở của doanh nghiệp.
Quá trình sử dụng hóa đơn còn phát sinh các trường hợp cháy, mất, hỏng hóa đơn, người nộp thuế phải báo cáo với cơ quan thuế và thực hiện hủy hóa đơn theo quy định. Dữ liệu về thông báo hủy hóa đơn phải được nhập vào hệ thống QLAC. Qua theo dõi, năm 2013 toàn ngành đã kiểm soát, nhập được 3.658 lượt thông báo hủy hóa đơn.
Bên cạnh đó, trong tình huống doanh nghiệp làm mất hóa đơn sẽ bị xử phạt theo quy định. Năm 2013, Cục thuế thành phố Hà Nội đã có 612 trường hợp vi phạm phải xử phạt, đã xử phạt được 200 trường hợp bằng 33% (tăng 4% so với 11 tháng đầu năm 2013); trong đó số tồn chưa xử phạt tại Phòng Kiểm tra số 1,2 còn tỷ lệ thấp. Tuy nhiên, chế tài áp dụng đối với hành vi làm mất hóa đơn chưa thực sự nghiêm khắc khiến cho nhiều doanh nghiệp chọn báo mất và chấp nhận nộp phạt để sử dụng hóa đơn cho mục đích trốn thuế. Hành vi gian lận này tương đối khó phát hiện trên thực tế.
Về thực trạng quản lý việc sử dụng hóa đơn GTGT, ngành thuế phải đối mặt với rất nhiều những hành vi vi phạm đã được đề cập ở phần trước. Các hành vi này có diễn biến ngày càng phức tạp với những thủ đoạn tinh vi nhằm trốn tránh nghĩa vụ thuế hoặc rút tiền từ ngân sách nhà nước bằng cách lập các hồ sơ khống để được khấu trừ hoặc hoàn thuế GTGT mà chủ yếu lợi dụng sự thông thoáng trong chính sách quản lý, sử dụng hóa đơn của Nhà nước để thực hiện mua bán và sử dụng hóa đơn GTGT bất hợp pháp. Thực tế cho thấy cơ quan thuế không thể kiểm tra chi tiết xem doanh nghiệp có phản
ánh đúng, đầy đủ các chỉ tiêu trên hóa đơn GTGT theo đúng nghiệp vụ kinh tế phát sinh hay không? Số lượng doanh nghiệp và số lượng hóa đơn cần kiểm soát là quá lớn trong khi nguồn nhân lực của cơ quan thuế có hạn. Tuy nhiên, hiện nay cơ quan thuế đang áp dụng cơ chế tự động kiểm soát việc thực hiện ghi đúng, ghi đủ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh của doanh nghiệp. Cụ thể là:
- Đối với các doanh nghiệp hạch toán theo phương pháp khấu trừ, phương pháp này chứa đựng trong nó cơ chế tự kiểm soát. Khi kê khai thuế GTGT doanh nghiệp phải lập bảng kê giá trị hàng hóa, dịch vụ mua vào và bảng kê hàng hóa, dịch vụ bán ra. Với hóa đơn GTGT, doanh nghiệp sẽ được khấu trừ thuế đã nộp. Điều này tạo động lực cho người mua hàng hóa, dịch vụ yêu cầu người bán hàng hóa, dịch vụ phải lập hóa đơn khi mua hàng. Tuy nhiên, tình huống diễn ra phổ biến trên thực tế gây khó khăn cho cơ quan thuế là người bán và người mua thông đồng với nhau lập hóa đơn GTGT không theo giá trị thực tế phát sinh hoặc hai bên thỏa thuận lập khống hóa đơn nhằm tăng số thuế đầu vào của doanh nghiệp để được khấu trừ và hoàn thuế.
- Để kiểm soát người nộp thuế lập hóa đơn GTGT có đúng và đầy đủ hay không, thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra dựa trên các tiêu chí đánh giá rủi ro để kiểm tra các doanh nghiệp về thực hiện nghĩa vụ thuế và hóa đơn GTGT. Qua công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan thuế nhiều hành vi vi phạm được phát hiện như: sử dụng hóa đơn giả, lập khống hóa đơn, bán hàng không lập hóa đơn… và xử lý nghiêm minh. Điều này ít nhiều có tác dụng trong việc nâng cao ý thức của người nộp thuế. Tuy nhiên, con số vi phạm được cơ quan thuế phát hiện là rất nhỏ so với thực tế bởi: tương quan giữa lực lượng cán bộ thuế có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và số lượng vi phạm rất khập khiễng. Mặt khác, để kiểm tra được tính chính xác của các hóa đơn buộc cán bộ thuế cần phải đối chiếu giữa liên 1 và liên 2 của hóa đơn. Do chưa có phần mềm phục vụ cho việc đối chiếu tự động nên