đó, Quy chế Đại học tư thục (ĐHTT) cho phép chia cổ tức và tổ chức trường đại học giống như một công ty cổ phần. Hoạt động của trường đều nhằm tìm kiếm lợi nhuận để làm lợi cho các nhà đầu tư.
• Quyết định 61/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế ĐHTT quy định “Tài sản là vốn góp được công nhận sở hữu tư nhân. Tài sản tăng thêm thuộc sở hữu chung của trường”[36]. Tài sản tăng thêm thuộc sở hữu chung của nhà trường và do Hội đồng quản trị (HĐQT) quản lý. HĐQT lại bao gồm cả những cá nhân không góp vốn ban đầu. Chính sách này thể hiện hai mâu thuẫn. Một là các nhà đầu tư đầu tư vào các hoạt động gây lời nhưng lại không được hưởng lợi nhuận – mâu thuẫn trực tiếp với động lực đầu tư. Hai là những người không đóng góp gì lại có quyền quản lý điều hành phần tài sản chung của trường.
- Đảm bảo yếu tố tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư từ ngoài nước, phù hợp với bối cảnh toàn cầu hóa
Việc ban hành Nghị định số 06/2000/NĐ-CP quy định việc hợp tác đầu tư nước ngoài đối với các cơ sở khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo, hoạt động khoa học công nghệ.
Nghị định số 18/2001/NĐ-CP ngày 4/5/2001 quy định về lập và hoạt động của các cơ sở văn hóa, giáo dục nước ngoài tại Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nước, tổ chức quốc tế tham gia phát triển giáo dục, đào tạo ở Việt Nam.
Luật đầu tư 2005 thay thế luật khuyến khích đầu tư trong nước và Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Nghị quyết của Quốc hội số 35/2009/NQ-QH12 về chủ trương, định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính trong GD-ĐT từ năm học 2010- 2011 đến năm học 2014-2015.
Như vậy khẳng định pháp luật về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đại học Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định, vừa thể hiện tính đồng bộ, đẩy đủ bởi các văn bản quy phạm pháp luật, vừa từng bước đảm bảo tính tự chủ, công khai, minh bạch, phi lợi nhuận và yếu tố hội nhập quốc tế.
Kết quả cụ thể đó được thể hiện bởi sự tăng số lượng các trường cao đẳng, đại học (tính đến năm 2014, cả nước có hơn 440 trường cao đẳng, đại học); các trường đã từng bước khẳng định được vị thế, thương hiệu của chính mình (trong đó không ít những trường tư thục), đáp ứng được nhu cầu của người học và mục tiêu giáo dục đại học nước nhà.
2.5.2. Những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân
Có thể bạn quan tâm!
- Các Quy Định Về Điều Kiện Đối Với Hoạt Động Đầu Tư Trong Giáo Dục
- Cơ Sở Giáo Dục Có Vốn Đầu Tư Nước Ngoài Được Tổ Chức Giảng Dạy:
- Đánh Giá Pháp Luật Đầu Tư Trong Giáo Dục Đại Học Tại Việt Nam
- Định Hướng Hoàn Thiện Pháp Luật Đầu Tư Trong Giáo Dục Đại Học Ở Việt Nam
- Pháp luật về đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam - 12
- Pháp luật về đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam - 13
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
Bên cạnh những mặt đạt được kể trên, pháp luật đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đại học ở Việt Nam còn rất nhiều điểm hạn chế, bất cập:
- Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ
Những mâu thuẫn trong các quy định giữa những quy định trong Luật giáo dục 2005 (Điều 20), Luật GDĐH 2012 (khoản 3 điều 11), Quy chế Đại học tư thục và Quyết định 61/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế ĐHTT quy định “Tài sản là vốn góp được công nhận sở hữu tư nhân” khiến cho tình trạng quản lý khó khăn. Hệ quả là đúng như nhận định tại Báo cáo của Hiệp hội các Trường ĐH-CĐ ngoài công lập tại Hội nghị Đánh giá 20 năm Phát triển Mô hình giáo dục đại học ngoài công lập ở Việt Nam 1993 – 2013, các trường đều tự nhận là trường tư phi lợi nhuận trong khi phần lớn đều hoạt động vì lợi nhuận. Bên cạnh đó, nhà nước cũng không thể có cơ chế hỗ trợ cho các trường phi lợi nhuận như nhiều nước khác như Nhật Bản, Philippines hay Thái Lan đang thực hiện.
- Thiếu tính tự chủ, công khai, minh bạch và tính chất phi lợi nhuận
Quyền tự chủ của trường đại học đã được ghi nhận 10 năm trở lại đây trong Luật Giáo dục 2005, Luật Giáo dục đại học 2012. Tuy nhiên, có thể các
nhà lập pháp chưa hiểu hết chiều sâu của những quy định này và các nhà quản lý chưa sẵn sàng thực hiện chúng. Bởi vì ngay trong Luật Giáo dục có thể tìm thấy những quy định trái chiều, ví dụ: “Trên cơ sở thẩm định của Hội đồng quốc gia thẩm định ngành về chương trình giáo dục đại học, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) quy định chương trình khung cho từng ngành đào tạo đối với trình độ cao đẳng, trình độ đại học bao gồm cơ cấu nội dung các môn học, thời gian đào tạo, tỷ lệ phân bổ thời gian đào tạo giữa các môn học, giữa lý thuyết với thực hành, thực tập. Căn cứ vào chương trình khung, trường cao đẳng, trường đại học xác định chương trình giáo dục của trường mình”; “Hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động của nhà trường, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm, công nhận”; “Nhà giáo được hưởng tiền lương, phụ cấp ưu đãi theo nghề và các phụ cấp khác theo quy định của Chính phủ” [42].
Theo quy định của Luật Giáo dục đại học 2012, Nhà nước vẫn đóng vai trò kiểm soát rất lớn. Ngay từ việc phát triển trường theo định hướng nào (nghiên cứu, ứng dụng hay vừa nghiên cứu vừa ứng dụng) cũng do các nhân tố ngoài trường quyết định là chính. Bởi vì theo quy định của Luật thì “cơ sở giáo dục đại học được phân tầng thành: a) Cơ sở giáo dục đại học định hướng nghiên cứu; b) Cơ sở giáo dục đại học định hướng ứng dụng; c) Cơ sở giáo dục đại học định hướng thực hành; mỗi tầng lại gồm các hạng; và “căn cứ kết quả xếp hạng, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền quyết định kế hoạch ưu tiên đầu tư, giao nhiệm vụ và cơ chế quản lý đặc thù đối với các cơ sở giáo dục đại học (công lập – NMT chú)”, “hỗ trợ cơ sở giáo dục đại học tư thục về đất đai, tín dụng và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ”. Theo quy định này, các trường đại học định hướng nghiên cứu được xếp trên tầng cao nhất, còn trường đại học định hướng thực hành dưới tầng thấp nhất; tầng trên tầng dưới có quyền lợi khác nhau. Bởi vậy, việc định hướng phát triển trường dễ bị chi phối vì lợi
ích: hầu hết các trường, kể cả những trường ngoài công lập mà trụ sở, giảng đường còn phải đi thuê, giảng viên cơ hữu chỉ trong khoảng 50 người, đều xác định là trường đại học định hướng nghiên cứu. Nhưng “tiêu chuẩn phân tầng cơ sở giáo dục đại học” lại do Chính phủ quy định. Điều đó có nghĩa là sứ mạng của trường không còn phụ thuộc vào nguyện vọng của những người sáng lập và tập thể nhà trường nữa.
Cũng theo quy định tại Điều 9, trường đại học được xếp hạng theo khung xếp hạng do Chính phủ ban hành. “Thủ tướng Chính phủ công nhận xếp hạng đối với đại học, trường đại học; Bộ trưởng Bộ GD&ĐT công nhận xếp hạng đối với trường cao đẳng”. Việc cơ quan nhà nước gánh lấy trách nhiệm xếp hạng các trường vừa tước bỏ quyền tự chủ của cộng đồng đại học trong hoạt động này, vừa ảnh hưởng tới thanh danh của cơ quan nhà nước, bởi vì đối với giới chuyên môn, kết quả xếp hạng của những tổ chức xếp hạng có uy tín mới thật sự có giá trị.
Cùng với việc phân tầng, xếp hạng, Luật Giáo dục đại học 2012 cũng quy định mức độ tự chủ khác nhau giữa các trường và để ngỏ khả năng “thu hồi quyền tự chủ”. Điều 32 quy định: “1. Cơ sở giáo dục đại học tự chủ trong các hoạt động chủ yếu thuộc các lĩnh vực tổ chức và nhân sự, tài chính và tài sản, đào tạo, KH&CN, hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng giáo dục đại học. Cơ sở giáo dục đại học thực hiện quyền tự chủ ở mức độ cao hơn phù hợp với
năng lực, kết quả xếp hạng và kết quả kiểm định chất lương giáo dục . 2. Cơ
sở giáo dục đại học không còn đủ năng lực thực hiện quyền tự chủ hoặc vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện quyền tự chủ, tùy thuộc mức độ, bị xử lý theo quy định của pháp luật” [16].
Trong các trường đại học hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, chỉ có trường đại học vốn đầu tư nước ngoài được quyền tự chủ rộng rãi nhất. Tiếp theo là ĐH quốc gia. Luật dành hẳn một điều quy định về tổ chức này: “Đại học quốc
gia có quyền chủ động cao trong các hoạt động về đào tạo, nghiên cứu khoa học, tài chính, quan hệ quốc tế và tổ chức bộ máy”. Trong số các trường còn lại, những trường ở tầng cao, thứ hạng cao được hưởng “cơ chế quản lý đặc thù”, có nghĩa là được quyền tự chủ cao hơn. Còn các trường đại học tư thục, cũng giống như doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực kinh tế, tuy được quyền tự chủ rộng rãi hơn nhưng điều kiện thực hiện quyền tự chủ lại hạn chế hơn do không được hoặc ít được tiếp cận với các nguồn lực của Nhà nước.
Sự phân tầng trên dưới có tính chất cố định bằng pháp luật, sự xếp hạng cao thấp có tính chất lâu dài bằng văn bản công nhận của người đứng đầu Chính phủ và những sự ưu đãi khác nhau, mức độ tự chủ khác nhau theo các tiêu chí tầng trên/tầng dưới, hạng cao/hạng thấp, công lập/tư thục, trong nước/nước ngoài sẽ dẫn đến một cuộc cạnh tranh không bình đẳng giữa các trường. Các trường ở tầng dưới, thứ hạng thấp, ưu đãi kém sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện quyền tự chủ, còn những trường đã được cố định ở tầng cao, thứ hạng cao, ưu đãi cao cũng sẽ mất dần động cơ phấn đấu [42].
Về tổ chức và nhân sự, mỗi trường đại học công lập đều thuộc một cơ quan chủ quản. Cơ quan này quyết định việc thành lập, chia tách, sáp nhập, giải thể các trường; bổ nhiệm chủ tịch hội đồng trường và hiệu trưởng. Cơ quan chủ quản còn quyết định biên chế, xếp bậc lương và trả lương cho cán bộ, giảng viên, viên chức toàn trường.
Điểm mới trong Luật GDĐH là quy định trường đại học có hội đồng trường (ở ĐH Quốc gia, đại học vùng là hội đồng đại học, ở trường đại học tư thục là hội đồng quản trị).
Hội đồng trường ở trường đại học công lập được trao quyền rất lớn, nhưng không có quyền bầu và miễn nhiệm hiệu trưởng (hoặc giám đốc đại học) nên về nguyên tắc hiệu trưởng (giám đốc) không phải chịu trách nhiệm trước Hội đồng mà chỉ chịu trách nhiệm trước cấp trên, giống người đứng đầu tổ chức
thuộc hệ thống hành chính hơn là người đứng đầu tổ chức tự quản. Hội đồng trường thường do hiệu trưởng (giám đốc) làm chủ tịch, do đó, Hội đồng đóng vai trò tư vấn hơn là một Hội đồng quyền lực. Mặt khác, ở các trường đại học công lập Việt Nam, tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam mới là cơ quan lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối, từ chiến lược phát triển dài hạn, kế hoạch hằng năm đến tổ chức, nhân sự, tài chính, các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học và mọi hoạt động khác của nhà trường. Mối quan hệ giữa tổ chức Đảng với Hội đồng trường chưa được Luật GDĐH quy định rõ nên Hội đồng trường chỉ mang tính hình thức, không có thực quyền. Bởi vậy, cho đến năm 2010, trong 440 trường đại học, cao đẳng lúc đó, chưa tới 10 trường có Hội đồng trường, và trên thực tế, các Hội đồng này gần như không hoạt động, các thành viên ngoài trường hầu như không dự phiên họp nào, không có bất cứ hoạt động gì, trừ sự hiện diện tại phiên họp công bố quyết định thành lập Hội đồng.
So với trường công lập, các trường tư thục không phải chịu nhiều ràng buộc như trên. Tuy nhiên, hiệu trưởng trường đại học tư thục vẫn phải được cơ quan có thẩm quyền của nhà nước công nhận sau khi được bầu, học hàm giáo sư, phó giáo sư của các trường đại học ngoài công lập cũng do một cơ quan bên ngoài trường là Hội đồng Chức danh Nhà nước xét duyệt trước khi hiệu trưởng ra quyết định bổ nhiệm. Bên cạnh đó, Luật GDĐH còn quy định: “Người có thẩm quyền quyết định thành lập hoặc cho phép thành lập cơ sở giáo dục đại học thì có thẩm quyền quyết định sáp nhập, chia, tách, giải thể cơ sở giáo dục đại học” [16], trong khi lẽ ra chỉ hội đồng quản trị hoặc hiệu trưởng mới có quyền sáp nhập, chia, tách trường.
Điểm khác biệt quan trọng giữa trường tư thục với trường công lập là Hội đồng quản trị có thực quyền. Nhưng vì đây là “tổ chức đại diện duy nhất cho quyền sở hữu của nhà trường” có nhiệm vụ trước hết là “tổ chức thực hiện các
nghị quyết của đại hội đồng cổ đông” – cơ quan có thẩm quyền quyết định cao nhất về đường lối phát triển của nhà trường theo Quy chế Tổ chức và hoạt động của trường đại học tư thục cho nên quyền tự chủ thực chất là quyền của những cổ đông lớn, chứ không phải của các nhà chuyên môn – những nhân tố đảm bảo cho trường đại học có đủ năng lực tự quyết định làm gì và làm như thế nào.
Mặt khác, khi đất nước buộc phải “đổi mới” sau năm 1986, nhà nước nới lỏng các chính sách kinh tế trước, cho phép lập thương mại tư, gây vốn tư, tìm nguồn vốn từ nước ngoài... Mảng giáo dục đi chậm hơn: mãi đến năm 1993, Thủ tướng Chính phủ mới ban hành qui chế đầu tiên về đại học tư thục.
Qua hai quy chế tạm thời vào năm 1994, quy chế chính thức về đại học tư chỉ ra đời năm 2000, nhìn nhận “sở hữu tập thể” và một số yếu tố phi lợi nhuận như phải có quỹ dự trữ bắt buộc, phải đầu tư vào cơ sở vật chất; nhưng vẫn cho trả lãi, hoàn trả vốn góp…
Luật Giáo dục năm 2005 và sau đó Nghị định số 75/2006 chính thức coi trường tư là một doanh nghiệp theo mẫu vì lợi nhuận: các nhà đầu tư sở hữu toàn bộ tài sản của trường; cổ tức phân chia theo tỷ lệ vốn góp; cổ đông có quyền chuyển nhượng hay rút vốn,…
Năm 2012, Quốc hội mới thông qua Luật Giáo dục ĐH, như đã nói ở trên, và lần đầu tiên phân biệt “vì lợi nhuận” và “phi lợi nhuận”, mặc dù lằn ranh giữa hai chế độ còn rất mông lung, và cả hai vẫn còn dựa vào mẫu của các doanh nghiệp hoạt động kinh tế vì lợi nhuận
Hệ thống văn bản hiện hành cũng không giúp làm rõ hơn những khác biệt căn bản giữa “vì lợi nhuận” và “phi lợi nhuận” khi luật hiện hành dùng cụm từ “không vì lợi nhuận” và định nghĩa là “phần lợi nhuận tích lũy hằng năm là tài sản chung không chia, để tái đầu tư phát triển cơ sở giáo dục đại
học; các cổ đông hoặc các thành viên góp vốn không hưởng lợi tức hoặc hưởng lợi tức hằng năm không vượt quá lãi suất trái phiếu Chính phủ”[44].
Như vậy, có nghĩa là trường tư do các cá nhân hay nhóm góp tiền vốn
để lập ra và sau đó được chia một phần lợi nhuận của trường, vẫn được tự xưng là “không vì lợi nhuận” hay thông thường hơn là “phi lợi nhuận.”
Tuy nhiên, lợi nhuận mới chỉ là phần nổi của tảng băng; quan trọng hơn, và kiểm soát được lợi nhuận là quyền sở hữu và quyền quản trị nhà trường. Về khoản này, luật ĐH của Việt Nam hiện nay lại khá rõ ràng: cổ đông là sở hữu chủ và hội đồng quản trị, do cổ đông bầu lên hay chỉ định, có toàn quyền điều hành nhà trường qua trung gian là hiệu trưởng và ban giám hiệu.
Nói khác đi, một đại học tư hiện nay ở Việt Nam, hành xử như một “doanh nghiệp vì lợi nhuận”, dù ĐH đó có tự xưng là “phi lợi nhuận” và các giảng viên, nhân viên từ cấp hiệu trưởng trở xuống đều là nhân viên của doanh nghiệp, như bất cứ ở một doanh nghiệp nào khác.
Thực tế, không phải chỉ Đại học Hoa Sen, mà chuyện này đã xảy ra ở Trường Đại học tư thục Hùng Vương TP.HCM và một số trường đại học ngoài công lập khác. Ban đầu khi xây dựng trường, các nhà sáng lập đều quyết tâm tất cả cho giáo dục, không lợi nhuận. Nhưng khi góp vốn, người bỏ tiền đầu tư lại nghĩ khác, lợi ích là trên hết. Tuy không phải ai bỏ tiền cũng khăng khăng nghĩ đến tiền, nhưng người nghĩ đến tiền chiếm đa số phiếu [27].
Kết luận chương 2:
Việc ra đời Luật Đầu tư 2005, Luật Giáo dục 2005, Luật Giáo dục Đại học 2012 và các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước đã một phần đáp ứng được yêu cầu của phát triển giáo dục nói chung và phát triển giáo dục đại