Đánh Giá Tình Hình Hoạt Động Tín Dụng Của Ngân Hàng


Tổng nguồn vốn

TỔNG NGUỒN VỐN CỦA NGÂN HÀNG

600.000

500.000

400.000

300.000

200.000

100.000

0

553.485

384.622

272.807

2005

2006

Năm

2007

Triệu đồng

Biểu đồ 2: Biểu đồ nguồn vốn của ngân hàng


Nhìn chung, tổng nguồn vốn của ngân hàng tăng trưởng mạnh qua 3 năm. Tổng nguồn vốn hoạt động năm 2006 đạt 384.622 triệu đồng tăng 40,98% so với năm 2005; sang năm 2007 tổng nguồn vốn đạt 553.485 triệu đồng tăng 43,91% so với năm 2006. Vậy nguyên nhân khiến tổng nguồn vốn tăng mạnh là gì? Để trả lời câu hỏi này ta sẽ đi xem xét từng khoản mục trong tổng nguồn vốn của ngân hàng.

- Vốn huy động: đây được xem là nguồn vốn chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng (chiếm tỷ trọng trên 50% trong tổng nguồn vốn). Vốn huy động của ngân hàng tăng mạnh qua các năm. Vốn huy động năm 2006 đạt 261.229 triệu đồng tăng 86,1% so với năm 2005; sang năm 2007 vốn huy động đạt 429.120 triệu đồng tăng 64,27% so với năm 2006.

Bảng 5: TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG


Đvt: Triệu đồng



Chỉ tiêu


2005


2006


2007

Tốc độ tăng trưởng (%)

2006/2005

2007/2006

- Tiền gửi tiết kiệm của dân cư

122.565

213.762

397.971

74,4

86,2

+ Không kỳ hạn

3.833

8.180

39.479

113,4

382,6

+ Có kỳ hạn

118.732

205.582

358.492

73,1

74,4

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 147 trang tài liệu này.

Phân tích khả năng cạnh tranh của ngân hàng á châu chi nhánh Cần Thơ - 7

kinh tế

17.800

47.467

31.149

166,7

-34,4

+ Không kỳ hạn

17.538

40.019

27.085

128,2

-32,3

+ Có kỳ hạn

262

7.448

4.064

2.742,7

-45,4

Tổng vốn huy động

140.365

261.229

429.120

86,1

64,27

- Tiền gửi của tổ chức

Nguồn: Phòng giao dịch và ngân quỹ


Vốn huy động của ngân hàng bao gồm tiền gửi tiết kiệm của dân cư và tiền gửi của tổ chức kinh tế trong đó tiền gửi tiết kiệm luôn chiếm tỷ trọng cao (trên 80%/năm) và tăng qua các năm. Năm 2006, tiền gửi tiết kiệm đạt 213.762 triệu đồng tăng 74,4% so với năm 2005, sang năm 2007 tiền gửi tiết kiệm đạt 397.971 triệu đồng tăng 86,2% so với năm 2006. Tiền gửi tiết kiệm tăng là do đời sống của người dân từng bước nâng lên, thu nhập được cải thiện, hoạt động của ngân hàng tạo được lòng tin của người dân nên khiến họ hoàn toàn an tâm gửi tiền vào ngân hàng. Mặt khác, ngân hàng cũng đưa ra các kỳ hạn huy động rất linh hoạt như kỳ hạn tuần, tháng để người dân lựa chọn cho phù hợp với mục đích sử dụng của mình và có thể được rút tiền trước thời hạn khi có việc cần nhưng vẫn được hưởng theo lãi suất không kỳ hạn. Ngoài ra, ngân hàng còn mở thêm hình thức tiết kiệm dự thưởng, khi khách hàng gửi tiền sẽ được rút thăm trúng thưởng các hiện vật có giá trị nên cũng huy động được nhiều từ nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư.

Bên cạnh tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi của tổ chức kinh tế trong 3 năm qua cũng biến động mạnh. Năm 2006 ngân hàng huy động được 47.467 triệu đồng tăng 166,7% so với năm 2005, nguyên nhân của sự gia tăng này là do một số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả nên có một số vốn tạm thời chưa cần sử dụng đã gửi vào ngân hàng, mặt khác do ngân hàng sử dụng hình thức chuyển tiền qua mạng vi tính, chuyển tiền điện tử nhanh chóng, kịp thời cho việc chi trả tiền hàng, rất thuận tiện cho việc thanh toán không dùng tiền mặt, nhiều doanh nghiệp thấy được lợi ích này nên đến Ngân hàng để mở tài khoản thanh toán làm cho loại hình tiền gửi này tăng lên. Tuy nhiên sang năm 2007 tiền gửi của tổ chức kinh tế có sự sụt giảm mạnh, ngân hàng chỉ huy động được

31.149 triệu đồng giảm 34,4% so với năm 2006. Nguyên nhân là do theo chủ trương

của Chính phủ các doanh nghiệp lớn hiện nay đều trả lương qua thẻ trong khi đó ACB

–Cần Thơ vẫn chưa chú trọng phát triển dịch vụ này cụ thể là mạng lưới máy ATM của

ACB vẫn còn hạn chế so với các đối thủ khác như Đông Á, Ngoại thương, Đầu tư…Vì vậy mà không ít khách hàng doanh nghiệp của ngân hàng đã chuyển sang gửi tiền tại các ngân hàng này làm cho tiền gửi thanh toán của ngân hàng sụt giảm mạnh. Ngoài ra khi Việt Nam đã gia nhập WTO thì cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn, lượng vốn nhàn rỗi trong các doanh nghiệp cũng ít đi do họ phải tập trung vốn vào sản xuất kinh doanh, mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm tăng khả năng cạnh tranh của mình. Vì vậy, lượng tiền mà họ gửi vào ngân hàng giảm mạnh cụ thể tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp trong năm 2007 chỉ đạt 4.064 triệu đồng giảm 45,4% so với năm 2006.


TÌNH HÌNH VỐN HUY ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG

450.000

400.000

350.000

300.000

Triệu đồng 250.000

200.000

150.000

100.000

50.000

0

TGTK TGTCKT

Tổng vốn huy động

2005

2006

Năm

2007


Biểu đồ 3: Biểu đồ tình hình huy động vốn của ngân hàng


- Vốn điều chuyển: Vốn điều chuyển có xu hướng giảm qua các năm. Năm 2006, vốn điều chuyển đạt 74.115 triệu đồng giảm 15,01% so với năm 2005; sang năm 2007 vốn điều chuyển đạt 69.741 triệu đồng giảm 5,9% so với năm 2006. Vốn điều chuyển giảm là do vốn huy động của ngân hàng liên tục tăng nên ngân hàng có đủ vốn để kinh doanh nên không cần điều chuyển nhiều vốn từ Hội sở.

- Vốn chủ sở hữu: đây là nguồn vốn được cấp từ Hội sở khi thành lập chi nhánh và có xu hướng tăng qua các năm.Vốn chủ sở hữu năm 2006 đạt 49.278 triệu đồng tăng 8,94% so với năm 2005; sang năm 2007 vốn chủ sở hữu đạt 54.624 triệu đồng tăng 10,85% so với năm 2006. Vốn chủ sở hữu tăng là do trong những năm qua ngân hàng kinh doanh có hiệu quả làm cho lợi nhuận giữ lại của ngân hàng tăng.

Vốn chủ sở hữu

Vốn điều chuyển Vốn huy động

CƠ CẤU NGUỒN VỐN CỦA NGÂN HÀNG

100%

90%

80%

70%

60%

50%

40%

30%

20%

10%

0%

16,58

12,81

9,87

12,60

19,27

31,97

67,92

77,53

51,45

2005

2006Năm

2007


Biểu đồ 4: Biểu đồ cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng


Tóm lại, tổng nguồn vốn tăng mạnh chủ yếu là do vốn huy động tăng nhanh. Qua đó cho thấy công tác huy động vốn của ngân hàng trong 3 năm qua là tốt, nguồn vốn huy động năm sau cao hơn năm trước, tập trung chủ yếu vào tiền gửi dân cư. Vốn huy động tăng cao là một tín hiệu đáng mừng và một lợi thế cho ngân hàng trong giai đoạn cạnh tranh hiện nay, tuy nhiên vấn đề đặt ra là ngân hàng sẽ sử dụng nguồn vốn đó như thế nào để vừa đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng vừa có khả năng hoàn trả đúng hạn cho khách hàng (vốn và lãi) khi đến hạn. Để trả lời vấn đề này ta sẽ đi xem xét chất lượng tài sản có của ngân hàng.

4.1.1.2. Chất lượng tài sản có – ASSET QUALITY

Khi đánh giá chất lượng tài sản Có ở đây chủ yếu tập trung vào đánh giá kết quả hoạt động tín dụng của ngân hàng bởi đây là sản phẩm mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Thông qua một số chỉ tiêu như doanh số cho vay, doanh số thu nợ, nợ quá hạn… ta có thể đánh giá một cách khái quát hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng qua ba năm.

Bảng 6: ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG


Chỉ tiêu

Đơn vị

Năm 2005

Năm 2006

Năm 2007

1. Tổng dư nợ (DN)

Triệu đồng

87.600

176.582

481.861

2. Nợ quá hạn

Triệu đồng

389

186

165,4

3. Doanh số thu nợ

Triệu đồng

122.877

317.317

1.014.438

4. Doanh số cho vay

Triệu đồng

164.162

460.310

1.426.961

5. Vốn huy động

Triệu đồng

140.365

261.229

429.120

6. Dư nợ bình quân

Triệu đồng

77.193

132.091

329.222

7. Tổng DN / Vốn huy động

Lần

0,62

0,68

1,12

8. Nợ QH / Tổng DN

%

0,44

0,1

0,03

9. Hệ số thu nợ (3)/(4)

%

74,85

68,94

71,1

10.Vòng quay vốn tín dụng

(3)/(6)

Vòng

1,6

2,4

3,1

Nguồn: Phòng kinh doanh


- Tổng dư nợ trên vốn huy động


Chỉ tiêu này cho biết khả năng sử dụng vốn huy động của ngân hàng. Nhìn chung, trong hai năm 2005 và 2006 ngân hàng chưa khai thác tốt nguồn vốn huy động trong cho vay, cụ thể chỉ tiêu này trong hai năm 2005 và 2006 đều nhỏ hơn 1. Nguyên nhân là do cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng trên địa bàn làm cho thị phần cho vay của ngân hàng giảm xuống, mặt khác do ngân hàng theo đuổi chính sách tín dụng an toàn nên hạn chế cho vay những món vay có độ rủi ro cao, điều này cũng hạn chế sự tăng trưởng dư nợ ngân hàng. Sang năm 2007, ngân hàng đã có những biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm tăng dư nợ như áp dụng nhiều chương trình ưu đãi cho khách hàng vay vốn như chương trình tín dụng đặc biệt vay vốn lãi suất cố định, chương trình khuyến mại vay ngay trúng lớn cùng ACB và đặc biệt ngân hàng đã cho ra đời loại hình cho vay tín chấp với thời gian xử lý hồ sơ nhanh chóng (24 giờ) và đặc biệt khách hàng không cần phải có tài sản thế chấp để vay vốn. Chính những điều này đã làm cho dư nợ của ngân hàng trong năm 2007 tăng lên đáng kể (tăng 173% so với năm 2006) qua đó

làm tăng khả năng sử dụng vốn huy động của ngân hàng. Lúc này bình quân 1,12 đồng dư nợ thì có 1 đồng vốn huy động tham gia.

- Nợ quá hạn trên tổng dư nợ


Chỉ tiêu này phản ánh chất lượng nghiệp vụ tín dụng, cũng như khả năng thu hồi nợ của ngân hàng, giúp ta đánh giá chính xác thực trạng rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Qua số liệu thực tế, ta thấy chỉ số này liên tục giảm qua các năm. Năm 2005 tỷ lệ này là 0,44% sang năm 2006 giảm xuống còn 0,1% và tiếp tục giảm trong năm 2007 xuống còn 0,03%. Có được kết quả này là do Ngân hàng đã thực hiện tốt công tác xử lý nợ quá hạn, đề ra các biên pháp hữu hiệu để thu hồi nợ tồn đọng, bên cạnh đó khâu cho vay cũng được thắt chặt hơn. Tại ACB, hồ sơ vay sau khi được nhân viên thẩm định trình thì phải được Ban Tín Dụng thông qua mới được giải ngân cho vay, trong quá trình cho vay cán bộ tín dụng luôn theo dõi sát sao tình hình sử dụng vốn của khách hàng đảm bảo khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích. Qua đó, đảm bảo món vay được thu hồi đúng hạn và tránh phát sinh thêm nợ quá hạn mới.

- Hệ số thu nợ


Hệ số thu nợ phản ánh hiệu quả thu hồi nợ của ngân hàng, cũng như khả năng trả nợ của khách hàng, cho biết số tiền ngân hàng thu được từ một đồng doanh số cho vay. Hệ số thu nợ của ngân hàng qua các năm có sự biến động không ổn định, cụ thể năm 2006 hệ số thu nợ của ngân hàng đạt 68,94% giảm 5,91% so với năm 2005. Nguyên nhân là do trong năm 2006 ngân hàng đẩy mạnh cho vay làm cho doanh số cho vay tăng mạnh (tăng 180,4%) so với năm 2005; trong khi đó doanh số thu nợ chỉ tăng 158,2% so với năm 2005 thấp hơn tốc độ tăng của doanh số cho vay. Chính điều này đã làm cho hệ số thu nợ của ngân hàng sụt giảm. Sang năm 2007, công tác thu hồi nợ đã được chú trọng nhiều hơn nên doanh số thu nợ tăng mạnh (tăng 220%) so với năm 2006 và tăng nhanh hơn tốc độ tăng của doanh số cho vay chỉ tăng 210%. Điều này đã làm cho hệ số thu nợ của ngân hàng được cải thiện tăng 2,16% so với năm 2006.

Nhìn chung, khả năng thu hồi nợ của ngân hàng ở mức tương đối tốt, trong 100 đồng doanh số cho vay ngân hàng thu được trên 68 đồng. Tuy nhiên để hoạt động tín dụng luôn được duy trì và phát triển đòi hỏi ngân hàng phải nỗ lực hơn nữa, có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia tăng doanh số cho vay đi đôi với tăng cường công tác thu nợ nhằm giúp cho đồng vốn của ngân hàng được đảm bảo an toàn và hiệu quả hơn.

- Vòng quay vốn tín dụng


Chỉ tiêu này đo lường tốc độ luân chuyển vốn tín dụng, thời gian thu hồi nợ nhanh hay chậm. Qua bảng số liệu, ta thấy vòng quay vốn tín dụng ngân hàng có xu hướng tăng. Cụ thể, năm 2005 vòng quay vốn tín dụng là 1,6 vòng qua năm 2006 đạt 2,4 vòng tăng 0,8 vòng so với năm 2005 và tiếp tục tăng lên 3,1 vòng trong năm 2007. Có được kết quả như vậy là nhờ ngân hàng đã có những biện pháp hữu hiệu như gọi điện thoại đôn đốc khách hàng trả nợ đúng hạn, ngoài ra việc thẩm định hồ sơ vay vốn khách hàng một cách chặt chẻ, đảm bảo khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích và có khả năng trả nợ đúng hạn khi đáo hạn cũng là một nhân tố giúp gia tăng doanh số thu nợ của ngân hàng, qua đó đẩy nhanh tốc độ vòng quay vốn tín dụng.

Qua việc đánh giá chất lượng tài sản Có của ngân hàng cho thấy hoạt động tín dụng của ngân hàng trong thời gian qua có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực, quy mô tín dụng được mở rộng, chất lượng nghiệp vụ được nâng cao Với mục tiêu hoạt động là “đi vay để cho vay” do đó ngân hàng phải sử dụng đồng vốn của mình một cách có hiệu quả. Sự gia tăng doanh số cho vay và doanh số thu nợ trong thời gian qua cho thấy Ngân hàng đã làm tốt công tác thẩm định, mạnh dạn cho vay đối với các đơn vị làm ăn hiệu quả, có phương án vay vốn và nguồn trả nợ có tính khả thi cao, tránh phát sinh thêm nợ quá hạn, duy trì tỷ lệ nợ quá hạn phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước.

Để nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng, ngoài việc duy trì mối quan hệ tốt đẹp với các khách hàng truyền thống có uy tín, kinh doanh hiệu quả ngân hàng cũng mở rộng hoạt động cho vay đối với các khách hàng tiềm năng khác nhằm nâng cao vị thế của ngân hàng.

4.1.1.3. Năng lực quản lý –MANAGEMENT ABILTY

Hiện nay Ban Lãnh Đạo ngân hàng gồm một Giám đốc và ba Trưởng phòng. Tất cả họ đều có trình độ Đại học riêng Giám đốc đã được đào tạo Thạc sỉ tại Đại học Kinh tế Hồ Chi Minh. Ngoài ra họ đều là những người làm việc lâu năm trong lĩnh vực tài chính ngân hàng (trên 10 năm) vì vậy mà những kinh nghiệm tích lũy được là rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Để có thể đánh giá năng lực quản lý của ban điều hành ngân hàng ta có thể xem xét một số tiêu chí sau:

- Hiệu quả kinh doanh

Hoạt động kinh doanh của ACB Cần Thơ trong ba năm qua đều tốt do kết quả kinh doanh qua các năm đều có lợi nhuận và lợi nhuận năm sau luôn cao hơn năm trước. Để làm được điểu này, chúng ta cần phải kể đến sự cố gắng làm việc của đội ngũ cán bộ công nhân viên ngân hàng trong đó đội ngũ quản lý đóng một vai trò hết sức quan trọng. Khả năng quản lý của họ đã giúp ACB Cần Thơ có những chính sách và hướng đi phù hợp trong điều kiện kinh doanh cạnh tranh gay gắt như hiện nay.

Ngoài ra, sự quản lý tốt sẽ giúp ngân hàng nâng cao được uy tín của mình trên thị trường. Thật vậy với những chiến lược kinh doanh thu hút khách hàng linh hoạt, phù hợp như áp dụng lãi suất cho vay ưu đãi, tăng hạn mức tín dụng cho các khách hàng thân thiết sẽ gây ấn tượng tốt cho khách hàng, qua đó tạo được sự an tâm của khách hàng khi đến giao dịch với ngân hàng. Hiện nay, ACB Cần Thơ đã xây dựng được mối quan hệ tín dụng lâu dài với rất nhiều doanh nghiệp trên địa bàn như công ty may Tây Đô, doanh nghiệp tư nhân kinh doanh lúa gạo Ba Xê, công ty cổ phần thủy sản Bình An… chính điều này sẽ giúp ngân hàng gia tăng hiệu quả tín dụng nhưng vẫn đảm bảo rủi ro ở mức thấp.

- Sự tuân thủ pháp luật và quy định

Dưới sự quản lý chặt chẻ của Ban Lãnh Đạo, ACB Cần Thơ luôn thực hiện rất tốt những quy định của Pháp luật như đóng thuế thu nhập doanh nghiệp đầy đủ và đúng hạn, ngoài ra ngân hàng còn thực hiện tốt việc đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho nhân viên nhằm đảm bảo những quyền lợi thiết thực cho nhân viên để họ có thể yên tâm làm việc tại ngân hàng. Bên cạnh đó, ngân hàng còn nghiêm chỉnh thực hiện tốt việc trích lập dự trử bắt buộc, dự trử thanh toán, dự phòng rủi ro tín dụng theo quy định của ngân hàng Nhà nước.

Đối với những quy định từ Hội sở, ngân hàng luôn chấp hành tốt. Chẳng hạn khi thực hiện nghiệp vụ cho vay, cán bộ tín dụng của ngân hàng đều dựa vào quy chế cho vay, lãi suất do Hội sở ban hành. Ngoài ra, đối với những món vay lớn (trên 500 triệu) ngân hàng đều trình lên Hội sở xem xét trước khi quyết định cho vay. Việc tuân thủ quy chế trong hoạt động đã giúp cho ACB Cần Thơ hạn chế được những rủi ro cũng như gia tăng hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của mình. Chính điều này đã giúp ngân hàng hoàn thành xuất sắc mục tiêu mà Hội sở đề ra trong năm qua và đạt được danh hiệu Chi nhánh Giỏi trong toàn hệ thống.

Xem tất cả 147 trang.

Ngày đăng: 03/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí