Phân Tích Các Nhân Tố Tác Động Đến Thu Hút Vốn Đầu Tư Cho Du Lịch Tại Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu


thiết kế 1/500, điều chỉnh mục tiêu dự án, điều chỉnh tăng vốn cho dự án… để trì hoãn xây dựng dự án.

Một số dự án chủ đầu tư lại đề nghị chuyển đổi công năng khác đi nhiều so với

mục tiêu đầu tư đã được phê duyệt… nên tỷ lệ vốn thực hiện của các dự án rất thấp.

Bên cạnh đó, hiện vẫn chưa có quy định cụ thể về thời gian thực hiện các thủ tục đầu tư để xử lý, chế tài đối với các trường hợp chủ đầu tư cố tình kéo dài thời gian thực hiện hoặc không đủ năng lực đầu tư.

Thứ hai : Huy động vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng du lịch còn nhiều bất cập.

Thể hiện lượng vốn đầu tư thực thế không đáp ứng đủ nhu cầu đầu tư, đầu tư còn dàn trải, tiến độ triển khai thi công chậm vào các khu du lịch trọng điểm của tỉnh. Hiện nay, nguồn vốn đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng du lịch chủ yếu từ nguồn ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, nguồn ngân sách nhà nước còn rất hạn hẹp trước mắt cũng như trong thời gian tới vì nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch còn rất lớn. Vì vậy, ngoài việc bố trí nguồn vốn ngân sách nhà nước một cách thỏa đáng, tỉnh cần phải tích cực tìm kiếm thêm các nguồn vốn khác, đa dạng hóa các hình thức đầu tư để đáp ứng yêu cầu cấp bách này.

Thứ ba : công tác bồi thường thiệt hại, giải phóng mặt bằng của phần lớn các dự

án gặp nhiều vướng mắc.

Việc xử lý các thủ tuc hành chính để cưỡng chế thu hồi đất còn chậm do chưa có quy định cụ thể về thời gian, trình tự thủ tục trong khi các đối tượng bị thu hồi đất khiếu kiện kéo dài, vượt cấp làm ảnh hưởng đến kế hoạch thu hồi đất, giao đất cho dự án đây cũng là nguyên nhân chính làm chậm tiến độ thực hiện dự án của các chủ đầu tư.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 158 trang tài liệu này.

Thứ tư : Công tác xây dựng và ban hành quy hoạch phát triển du lịch vẫn còn chưa kịp thời.

Công tác ban hành quy hoạch chậm làm cho cơ sở hạ tầng du lịch phát triển chậm và không đồng bộ, đặc biệt là nguồn nước, điện cung cấp cho các khu du lịch, cũng là một trong những nguyên nhân giảm tính hấp dẫn để thu hút các dự án đầu tư vào du lịch.

Phân tích các nhân tố tác động đến thu hút vốn đầu tư cho du lịch tại tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu - 8

Thứ năm : Nguồn nhân lực du lịch không đáp ứng nhu cầu phát triển.

Nguồn nhân lực đã được phát triển về số lượng và chất lượng nhưng vẫn còn hạn chế về kỹ năng và thái độ phục vụ, đội ngũ lao động chưa đào tạo chuyên môn còn chiếm tỷ lệ lớn, chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường du lịch, nhất là thị trường du lịch quốc tế.


Thứ sáu : Môi trường tự nhiên và môi trường xã hội nhân văn phục vụ du lịch chưa ổn định, bền vững.

Văn hóa và văn minh du lịch trong cộng đồng dân cư chuyển biến rất chậm, ý thức của người dân trong việc giữ gìn, bảo vệ môi trường chưa cao, hiện tượng ô nhiễm môi trường biển, sạt lở bãi biển đang có nguy cơ lan rộng, ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch.

Thứ bảy : Sản phẩm dịch vụ du lịch MICE còn chưa phát triển.

Du lịch MICE có yêu cầu đặc thù về cơ sở hạ tầng, hệ thống các dịch vụ đi kèm cũng như các dịch vụ khác như: ăn uống, vui chơi, mua sắm... Tuy nhiên, việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, các khu vui chơi, các trung tâm thương mại, các làng nghề truyền thống chưa phát triển làm hạn chế sự phát triển du lịch của sản phẩm du lịch MICE.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Chương này đã trình bày tổng quan về ngành du lịch tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu như : điều kiện tự nhiên, điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ, tài nguyên du lịch và kết quả đã đạt được của ngành du lịch trong những năm qua. Sau đó, trình bày chi tiết thực trạng thu hút các nguồn vốn đầu tư cho phát triển ngành du lịch Bà Rịa Vũng Tàu trong giai đoạn 2006-2010 và đi sâu phân tích các nguồn vốn tài trợ cho đầu tư phát triển du lịch trong thời gian qua ở Bà Rịa Vũng Tàu, đánh giá tác động của việc thu hút vốn đầu tư vào du lịch đến kinh tế, xã hội và môi trường. Từ đó, tìm ra những tồn tại và nguyên nhân có tác động làm cản trở công tác huy động vốn đầu tư cho du lịch Bà Rịa Vũng Tàu trong thời gian qua.


CHƯƠNG 3: PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ CHO DU LỊCH TẠI TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU

3.1. Các mô hình nghiên cứu lý thuyết

3.1.1. Mô hình nghiên cứu môi trường vĩ mô PEST

Mô hình PEST nghiên cứu các tác động của các yếu tố trong môi trường vĩ mô. Các yếu tố đó là : Political (Thể chế- Luật pháp), Economics (Kinh tế), Sociocultrural (Văn hóa- Xã Hội), Technological (Công nghệ)

Đây là bốn yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến các ngành kinh tế, các yếu tố này là các yếu tố bên ngoài của của doanh nghiệp và ngành, và ngành phải chịu các tác động của nó đem lại như một yếu tố khách quan. Các doanh nghiệp dựa trên các tác động sẽ đưa ra những chính sách, hoạt động kinh doanh phù hợp.

* Các yếu tố thể chế - luật pháp : đây là yếu tố có tầm ảnh hưởng tới tất cả các ngành kinh doanh trên một lãnh thổ, các yếu tố thể chế, luật pháp có thể uy hiếp đến khả năng tồn tại và phát triển của bất cứ ngành nào. Khi kinh doanh trên một đơn vị hành chính, các doanh nghiệp sẽ phải bắt buộc tuân theo các yếu tố thể chế luật pháp tại khu vực đó.

- Sự bình ổn: thể chế nào có sự bình ổn cao trong các yếu tố xung đột chính trị, ngoại giao của thể chế luật pháp sẽ có thể tạo điều kiện tốt cho việc hoạt động kinh doanh và ngược lại các thể chế không ổn định, xảy ra xung đột sẽ tác động xấu tới hoạt động kinh doanh trên lãnh thổ của nó.

- Chính sách thuế: Chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu, các thuế tiêu thụ, thuế

thu nhập... sẽ ảnh hưởng tới doanh thu, lợi nhuận của doanh nghiệp.

- Các đạo luật liên quan: Luật đầu tư, luật doanh nghiệp,luật lao động, luật chống độc quyền, chống bán phá giá ...

- Chính sách: Các chính sách của nhà nước sẽ có ảnh hưởng tới doanh nghiệp, nó có thể tạo ra lợi nhuận hoặc thách thức với doanh nghiệp. Như các chính sách thương mại, chính sách phát triển ngành, phát triển kinh tế, thuế, các chính sách điều tiết cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng...

* Các yếu tố kinh tế : các doanh nghiệp cần chú ý đến các yếu tố kinh tế cả trong ngắn hạn, dài hạn và sự can thiệp của chính phủ tới nền kinh tế. Thông thường các doanh nghiệp sẽ dựa trên yếu tố kinh tế để quyết định đầu tư vào các ngành, các khu vực.


- Tình trạng của nền kinh tế: Bất cứ nền kinh tế nào cũng có chu kỳ, trong mỗi giai đoạn nhất định của chu kỳ nền kinh tế doanh nghiệp sẽ có những quyết định phù hợp cho riêng mình.

- Các yếu tố tác động đến nền kinh tế: Lãi suất, lạm phát,

- Các chính sách kinh tế của chính phủ: Luật tiền lương cơ bản, các chiến lược phát

triển kinh tế của chính phủ, các chính sách ưu đãi cho các ngành: Giảm thuế, trợ cấp....

-Triển vọng kinh tế trong tương lai:Tốc độ tăng trưởng, mức gia tăng GDP, tỉ suất

GDP trên vốn đầu tư...

* Các yếu tố văn hóa xã hội : mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ đều có những giá trị văn hóa và các yếu tố xã hội đặc trưng, và những yếu tố này là đặc điểm của người tiêu dùng tại các khu vực đó.

Những giá trị văn hóa là những giá trị làm lên một xã hội, có thể vun đắp cho xã hội đó tồn tại và phát triển. Chính vì thế các yếu tố văn hóa thông thường được bảo vệ hết sức quy mô và chặt chẽ, đặc biệt là các văn hóa tinh thần. Tuy vậy chúng ta cũng không thể phủ nhận những giao thoa văn hóa của các nền văn hóa khác vào các quốc gia. Sự giao thoa này sẽ thay đổi tâm lý tiêu dùng, lối sống, và tạo ra triển vọng phát triển với các ngành.

Bên cạnh văn hóa , các đặc điểm về xã hội cũng khiến các doanh nghiệp quan tâm khi nghiên cứu thị trường, những yếu tố xã hội sẽ chia cộng đồng thành các nhóm khách hàng, mỗi nhóm có những đặc điểm, tâm lý, thu nhập ... khác nhau.

* Yếu tố công nghệ : cả thế giới vẫn đang trong cuộc cách mạng của công nghệ, hàng loạt các công nghệ mới được ra đời và được tích hợp vào các sản phẩm, dịch vụ. Đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ truyền thông hiện đại đã giúp các khoảng cách về địa lý, phương tiện truyền tải.

- Đầu tư của chính phủ, doanh nghiệp vào công tác nghiên cứu và phát triển : Việc kết hợp giữa các doanh nghiệp và chính phủ nhằm nghiên cứu đưa ra các công nghệ mới, vật liệu mới... sẽ có tác dụng tích cực đến nền kinh tế.

- Tốc độ, chu kỳ của công nghệ, tỷ lệ công nghệ lạc hậu.

- Ảnh hưởng của công nghệ thông tin, internet đến hoạt động kinh doanh.

3.1.2. Mô hình nghiên cứu Chỉ số cạnh tranh toàn cầu

Chỉ số cạnh tranh toàn cầu (Global Competitiveness Index) là một chỉ số đánh giá

toàn diện được Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) xây dựng và công bố trong các báo cáo


cạnh tranh toàn cầu thường niên, nhằm đánh giá và xếp hạng các quốc gia trên toàn thế giới về những nền tảng kinh tế vi mô và vĩ mô tạo nên năng lực cạnh tranh của quốc gia. Theo WEF, năng lực cạnh tranh được xác định bởi tập hợp các thể chế, chính sách và các yếu tố tạo nên mức năng suất của một quốc gia. Nền kinh tế nào càng có năng lực cạnh tranh cao thì càng có xu hướng tạo ra mức thu nhập cao cho dân chúng.

Theo đó, chỉ số GCI được xây dựng trên cơ sở đo lường các yếu tố có tác động lớn

tới năng suất và năng lực cạnh tranh quốc gia từ 3 nhóm, 12 trụ cột :

* Nhóm trụ cột nhu cầu cơ bản

- Thể chế : đánh giá tính đúng đắn của các thể chế pháp lý và xã hội (hệ thống luật pháp và bảo hộ quyền sở hữu) đặt nền tảng cho nền kinh tế cạnh tranh và hiện đại, gồm các chỉ số như: tình hình cạnh tranh; chất lượng của các thể chế pháp lý; cảnh sát và việc phòng chống tội phạm,…

- Cơ sở hạ tầng : số lượng và chất lượng hệ thống giao thông vận tải, bến bãi, kho tàng, viễn thông, điện và các điều kiện phân phối giúp nâng cao hiệu quả đầu tư,…

- Ổn định kinh tế vĩ mô : đánh giá vai trò của Chính phủ, tác động của chính sách tài khoá (thu thuế và chi tiêu), phạm vi can thiệp của Chính phủ và chất lượng các dịch vụ do Chính phủ cung cấp thông qua nhiều chỉ số: cân đối ngân sách, chính sách tài khoá, lãi suất, lạm phát.

- Y tế và giáo dục phổ thông : đánh giá tình hình sức khoẻ của dân cư và số lượng,

chất lượng của công tác giáo dục phổ thông.

* Nhóm trụ cột tăng cường hiệu quả

- Đào tạo và giáo dục đại học : đánh giá về chất lượng giáo dục đại học và đào tạo

nhân lực phục vụ cho nền kinh tế .

- Hiệu quả của thị trường hàng hóa : đánh giá mức độ mở cửa của nền kinh tế, bao gồm mở cửa thương mại và đầu tư nhằm thể hiện mức độ hội nhập vào nền kinh tế thế giới và mức độ tự do hoá ngoại thương và đầu tư, thông qua các chỉ số như thuế quan và hàng rào phi thuế quan; khuyến khích xuất khẩu; chính sách tỷ giá; đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)...

- Hiệu quả của thị trường lao động : đánh giá hiệu quả và tính năng động của thị trường lao động, bao gồm: tay nghề và năng suất; tính linh hoạt trong các quy chế điều tiết hiệu quả của các chương trình xã hội; quan hệ nghề nghiệp (bãi công, quan hệ chủ thợ,…).


- Trình độ của thị trường tài chính: đánh giá vai trò của các thị trường tài chính trong hỗ trợ mức tiêu dùng tối ưu theo thời gian, tỷ lệ tiết kiệm và hiệu quả của các tổ chức trung gian tài chính trong việc chuyển tiền tiết kiệm thành vốn đầu tư có hiệu quả, thông qua các chỉ số như: phạm vi chuyển tiền tiết kiệm thành vốn đầu tư; hiệu quả và mức độ cạnh tranh; đầu tư và tiết kiệm,…

- Mức độ sẵn sàng về công nghệ : trình độ công nghệ và kiến thức tích luỹ, thông qua các chỉ số như: năng lực công nghệ và nội sinh; công nghệ và chuyển giao qua FDI hoặc từ nước ngoài.

- Quy mô thị trường :đánh giá quy mô thị trường thông qua các chỉ số quy mô thị trường trong nước và quốc tế.

* Nhóm trụ cột các nhân tố sáng tạo - đổi mới

- Trình độ doanh nghiệp : đánh giá chất lượng quản lý kinh doanh, bao gồm chiến lược cạnh tranh, phát triển sản phẩm, kiểm tra chất lượng, hoạt động tài chính công ty, nguồn nhân lực và khả năng tiếp thị…

- Sáng tạo : đánh giá năng lực đổi mới, số lượng và chất lượng của công tác nghiên cứu và triển khai.

3.1.3. Mô hình nghiên cứu Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh

Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI (Provincial Competitiveness Index) được xây dựng để đánh giá mức độ thuận lợi của môi trường kinh doanh, chất lượng điều hành kinh tế và nỗ lực cải cách hành chính của chính quyền địa phương các tỉnh, thành phố ở Việt Nam nhằm thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Chỉ số PCI do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phối hợp với Dự án Sáng kiến cạnh tranh Việt Nam (USAID/VNCI) của Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) điều tra và công bố từ năm 2005.

Chỉ số PCI gồm chín chỉ số thành phần phản ánh các lĩnh vực điều hành kinh tế tác động lớn đến sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Chín chỉ số thành phần này bao gồm:

- Chi phí gia nhập thị trường: đo lường về thời gian doanh nghiệp phải chờ để đăng ký kinh doanh và xin cấp đất; thời gian chờ để nhận được tất cả các loại giấy phép cần thiết để tiến hành hoạt động kinh doanh; số giấy phép, giấy đăng ký và quyết định chấp thuận cần thiết để chính thức hoạt động và mức độ khó khăn theo đánh giá của doanh nghiệp để có được tất cả các giấy đăng ký, giấy phép và quyết định chấp thuận.


- Tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử dụng đất: đo lường về hai khía cạnh của vấn đề đất đai mà doanh nghiệp phải đối mặt: việc tiếp cận đất đai có dễ dàng không và doanh nghiệp có thấy yên tâm và được đảm bảo về sự ổn định khi có được mặt bằng kinh doanh hay không.

- Tính minh bạch và tiếp cận thông tin: đo lường khả năng tiếp cận các kế hoạch của tỉnh và các văn bản pháp lý cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, liệu doanh nghiệp có thể tiếp cận một cách công bằng các văn bản này, các chính sách và quy định mới có được tham khảo ý kiến của doanh nghiệp và khả năng tiên liệu trong việc triển khai thực hiện các chính sách quy định đó và mức độ tiện dụng của trang web tỉnh đối với doanh nghiệp.

- Chi phí thời gian để thực hiện các quy định của Nhà nước: đo lường thời gian doanh nghiệp phải bỏ ra để thực hiện các thủ tục hành chính cũng như mức độ thường xuyên và thời gian doanh nghiệp phải tạm dừng kinh doanh để các cơ quan Nhà nước của địa phương thực hiện việc thanh tra, kiểm tra. Năm nay, chỉ số này cũng bao gồm một bộ các chỉ tiêu đo lường sự tiến bộ của Cải cách Hành chính công.

- Chi phí không chính thức: đo lường các khoản chi phí không chính thức mà doanh nghiệp phải trả và các trở ngại do những chi phí không chính thức này gây ra đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, việc trả những khoản chi phí không chính thức có đem lại kết quả hay “dịch vụ” như mong đợi và liệu các cán bộ Nhà nước có sử dụng các quy định của địa phương để trục lợi hay không.

- Tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh: đo lường tính sáng tạo, sáng suốt của lãnh đạo tỉnh trong quá trình thực thi chính sách Trung ương cũng như trong việc đưa ra các sáng kiến riêng nhằm phát triển khu vực kinh tế tư nhân, đồng thời đánh giá khả năng hỗ trợ và áp dụng những chính sách đôi khi chưa rõ ràng của Trung ương theo hướng có lợi cho doanh nghiệp.

- Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp: đo lường sự sẵn có của các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh như xúc tiến thương mại cho khu vực tư nhân, cung cấp các thông tin kinh doanh cho doanh nghiệp, dịch vụ tìm kiếm đối tác kinh doanh và các dịch vụ công nghệ; số lượng các nhà cung cấp dịch vụ tư nhân và chất lượng của các dịch vụ này.

- Chất lượng đào tạo lao động: đo lường các nỗ lực của lãnh đạo tỉnh để thúc đẩy đào tạo nghề và phát triển kỹ năng nhằm hỗ trợ cho các ngành công nghiệp tại địa phương và giúp người lao động tìm kiếm việc làm.


- Thiết chế pháp lý: đo lường lòng tin của doanh nghiệp tư nhân đối với hệ thống tòa án, tư pháp của tỉnh, liệu các thiết chế pháp lý này có được doanh nghiệp xem là công cụ hiệu quả để giải quyết tranh chấp hoặc là nơi doanh nghiệp có thể khiếu nại các hành vi nhũng nhiễu của cán bộ công quyền tại địa phương.

3.1.4. Mô hình nghiên cứu Các nhân tố cơ bản thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào một địa phương ở Việt Nam

Theo Nguyễn Mạnh Toàn (2010), các nhân tố chủ yếu nhằm thu hút đầu tư nước ngoài vào một nước hoặc một vùng lãnh thổ thường thay đổi tùy theo ngành nghề và chiến lược kinh doanh của công ty muốn đầu tư, cũng như mối quan hệ của công ty với thị trường nước sở tại. Tuy vậy, việc lựa chọn địa điểm đầu tư các công ty nước ngoài thường dựa trên các nhóm nhân tố chủ yếu sau đây:

* Nhóm nhân tố về kinh tế

- Nhân tố thị trường : quy mô và tiềm năng phát triển của thị trường là một trong những nhân tố quan trọng trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Quy mô thị trường là cơ sở quan trọng trong việc thu hút đầu tư tại tất cả các quốc gia và các nền kinh tế. Nhằm duy trì và mở rộng thị phần, các công ty đa quốc gia (MNEs) thường thiết lập các nhà máy sản xuất ở các nước dựa theo chiến lược thay thế nhập khẩu của các nước này. Bên cạnh đó, mức tăng trưởng GDP cũng là tín hiệu tốt cho việc thu hút FDI. Khi lựa chọn địa điểm để đầu tư trong một nước, các nhà đầu tư nước ngoài cũng nhắm đến những vùng tập trung đông dân cư - thị trường tiềm năng của họ.

- Nhân tố lợi nhuận : Lợi nhuận thường được xem là động cơ và mục tiêu cuối cùng của nhà đầu tư. Trong thời đại toàn cầu hóa, việc thiết lập các xí nghiệp ở nước ngoài được xem là phương tiện rất hữu hiệu của các công ty đa quốc gia trong việc tối đa hóa lợi nhuận. Điều này được thực hiện thông qua việc thiết lập các mối liên kết chặt chẽ với khách hàng và thị trường, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, chia rủi ro trong kinh doanh và tránh được các rào cản thương mại.

- Nhân tố về chi phí : phần đông các công ty đa quốc gia đầu tư vào các nước là để khai thác các tiềm năng, lợi thế về chi phí. Trong đó, chi phí về lao động thường được xem là nhân tố quan trọng nhất khi ra quyết định đầu tư. Đối với các nước đang phát triển, lợi thế chi phí lao động thấp là cơ hội để thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài.

Bên cạnh đó, hoạt động đầu tư trực tiếp ở nước ngoài cho phép các công ty tránh

được hoặc giảm thiểu các chi phí vận chuyển và do vậy có thể nâng cao năng lực cạnh

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/04/2023