Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Cổ Phần Hóa Doanh Nghiệp Nhà Nước

tư, công nghệ,... để tạo ra sự thay đổi tầm chiến lược đối với doanh nghiệp. Trường hợp bán cổ phần lần đầu ra công chúng của Tập đoàn Công nghiệp than và Khoáng sản Việt Nam với 3 Tổng công ty có vốn điều lệ trên 1.000 tỷ đồng là một ví dụ, khi không thu hút được nhà đầu tư chiến lược và nhà đầu tư mua số lượng lớn, do tỷ lệ nắm giữ của nhà nước tại các đơn vị này đều ở mức 98%- 99%.

- Thiếu cơ chế tìm kiếm, thu hút cổ đông chiến lược đối với doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa. Chủ sở hữu phần vốn nhà nước chưa chủ động và năng động tìm kiếm cổ đông chiến lược để thay thế vai trò thụ động của cổ đông nhà nước.

- Việc bán vốn nhà nước với tỷ lệ % quá thấp so với vốn điều lệ và bán theo phương thức đấu giá lẻ tẻ thay vì bán đấu giá cả lô cổ phần nên khó thu hút những nhà đầu tư lớn trong thời gian qua.

Thứ năm, giải quyết vấn đề người lao động sau cổ phần hóa


Giải quyết lao động dôi dư của doanh nghiệp sau cổ phần hóa là vấn đề không đơn giản, thậm chí ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp và không thể giải quyết một sớm một chiều mà cần có sự đầu tư nghiên cứu. Trước hết, căn cứ vào phương án cổ phần hoá về sắp xếp lao động, các doanh nghiệp cần đánh giá thực trạng của doanh nghiệp mình để có kế hoạch sắp xếp lại lao động, dự kiến số lao động tiếp tục làm việc tại công ty, số lao động tiếp tục tuyển dụng thêm hay giải quyết số lao động dôi dư, từ đó lập ra quỹ hỗ trợ kinh phí đào tạo lại theo quy định của Chính phủ.

Một trong số những vấn đề cần được quan tâm trong quá trình cổ phần hoá là số lao động dôi dư sau khi doanh nghiệp chuyển đổi được giải quyết chế độ chính sách, họ sẽ về đâu? Khi mất việc làm, dù được giải quyết đầy đủ chế độ theo quy định Nhà nước nhưng những lao động dôi dư không dễ kiếm việc làm trong một thời gian ngắn, vì hầu hết lực lượng này tay nghề yếu, trình độ năng lực hạn chế, không đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh hiện tại của doanh nghiệp, đặc biệt, người lao động vẫn chịu ảnh hưởng của mô hình cũ, tư duy và tác phong cũ. Bên cạnh đó, có một số công ty sau cổ phần hoá lại hoạt động kém hiệu quả, dẫn đến phá sản, nên người lao động tại doanh nghiệp bị mất việc làm. Vì thế, giải quyết số lao động dôi dư sau cổ phần hoá là vấn đề nan giải đối với nhiều doanh nghiệp. Trước đây, số lao

động dôi dư tại thời điểm cổ phần hoá được đào tạo, đào tạo lại để bố trí việc làm mới trong công ty do được Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí từ Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước theo hướng dẫn của Bộ Tài chính, đến nay, doanh nghiệp không còn được hỗ trợ nữa, khiến cho khả năng giải quyết vấn đề này trong hoạt động của doanh nghiệp sau cổ phần hóa bị hạn chế.

Trên thực tế, có nhiều doanh nghiệp sau khi chuyển đổi sở hữu, người sử dụng lao động muốn cơ cấu lại lao động đã gặp phải vướng mắc vì nhiều người lao động không muốn rời khỏi doanh nghiệp nên việc đàm phán lại hợp đồng lao động gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là đối với số lượng lao động cũ có hợp đồng không xác định thời hạn. Một khó khăn nữa đối với việc giải quyết lao động dôi dư sau cổ phần hoá là các cổ đông không muốn chi trả trợ cấp một lần cho những lao động này vì sợ giảm cổ tức của mình.

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.

3.2.1. Chủ trương, chính sách của nhà nước về cổ phần hóa giai đoạn 2016- 2020

Để khắc phục những hạn chế trong giai đoạn trước, đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa giai đoạn 2016- 2020, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các bộ, ngành, địa phương, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty chỉ đạo đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, cùng với cổ phần hóa, tiến hành tái cơ cấu doanh nghiệp một cách toàn diện, từ mô hình tổ chức quản lý, ngành nghề sản xuất kinh doanh, chiến lược phát triển, đầu tư, nguồn nhân lực, thị trường, ... Bên cạnh đó, tiếp tục quán triệt sâu rộng về quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, lộ trình cổ phần hóa, coi đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm cần khẩn trương và kiên quyết hoàn thành. Các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước có kết quả cổ phần hóa thấp cần nghiêm túc rút kinh nghiệm, xác định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân, có biện pháp phù hợp để khắc phục, góp phần hoàn thành mục tiêu chung. Các bộ, ngành, địa phương, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước cần bám sát đề án cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, chỉ đạo quyết liệt, chặt chẽ và khẩn trương nhiệm vụ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước. Đối với những doanh nghiệp chưa có kế hoạch cổ phần hóa, thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty căn cứ tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp nhà nước ban hành tại quyết định số 37/2014/QĐ-TTg ngày 18/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ, rà soát,

Những vấn đề pháp lý về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam - 10

bổ sung doanh nghiệp cần cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước và lộ trình triển khai, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để thực hiện. Đối với một số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công ích như môi trường đô thị, cấp, thoát nước, nếu các nhà đầu tư có nhu cầu nắm giữ đa số vốn điều lệ thì khuyến khích, với điều kiện doanh nghiệp cam kết cung cấp tốt các dịch vụ công ích này.

Trên cơ sở ý kiến chủ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đã đề ra một số giải pháp cần tập trung thực hiện:

- Quán triệt sâu sắc các nghị quyết, kết luận của Đảng và các cơ chế, chính sách pháp luật có liên quan của nhà nước về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, tập trung triển khai nghị quyết số 15/NQ- CP ngày 6/3/2014 của Chính phủ, quyết định số 51/2014.QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về một số nội dung về thoái vốn, bán cổ phần và đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán của doanh nghiệp nhà nước và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại thông báo số 334/TB-VPCP tại hội nghị giao ban về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước tháng 8/2014.

- Các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nghiêm túc thực hiện đẩy mạnh sản xuất kinh doanh đề đạt, vượt mức kế hoạch năm 2014, đồng thời tái cơ cấu doanh nghiệp một cách toàn diện, từ mô hình tổ chức quản lý, ngành nghề sản xuất kinh doanh, chiến lược phát triển, đầu tư, nguồn nhân lực, thị trường,... Đặc biệt quan tâm việc tạo ra sản phẩm mới, tăng năng suất lao động, hạ giá thành để nâng cao sức cạnh tranh, tiếp tục quán triệt sâu rộng về quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và lộ trình cổ phần hóa.

- Hoàn thiện cơ chế chính sách để đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước như sửa đổi quy định về bán, giao doanh nghiệp, hoàn thiện chính sách đối với người lao động dôi dư trong doanh nghiệp sắp xếp, chuyển đổi.

- Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát đối với hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Gắn trách nhiệm của người đứng đầu với kết quả và tiến độ thực hiện đề án tái cơ cấu doanh nghiệp.

- Thực hiện chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn tại một số doanh nghiệp lớn đã cổ phần hóa đang có vốn nhà nước về tổng công ty đầu tư kinh doanh vốn nhà nước theo quy định.

- Thực hiện các giải pháp tái cấu trúc thị trường chứng khoán theo tinh thần quyết định số 1826/QĐ-TTg ngày 6/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ qua đó hỗ trợ thu hút và khuyến khích nhà đầu tư tham gia mua cổ phần của doanh nghiệp. Các đơn vị thực hiện tốt chế độ báo cáo về tình hình triển khai cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, kịp thời báo cáo các cấp có thẩm quyền xử lý những khó khăn, vướng mắc, phát sinh trong quá trình thực hiện, đảm bảo thực hiện đúng kế hoạch đề ra.

Các giải pháp cần được quan tâm đến như:


- Cải cách cơ chế đại diện chủ sở hữu nhà nước theo hướng tập trung và chuyên nghiệp. Chuyển đổi mạnh mẽ việc quản lý các doanh nghiệp nhà nước dưới dạng quản lý vốn thay vì trực thuộc chính phủ, các bộ, hoặc Uỷ ban nhân dân tỉnh. Mỗi một công ty quản lý vốn sẽ phụ trách một lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ công nào đó. Các quỹ quản lý vốn nên đặt dưới sự quản lý tạm thời của một ủy ban cải cách doanh nghiệp nhà nước có vai trò tương đương một bộ trong Chính phủ. Ủy ban này sẽ thực hiện việc tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước để giảm quy mô và số lượng các doanh nghiệp nhà nước về một mức mục tiêu nào đó, chẳng hạn, tỷ trọng đóng góp vào GDP chỉ còn dưới 10% vào năm 2020.

- Cải cách hệ thống trách nhiệm và khuyến khích trong việc quản trị doanh nghiệp nhà nước theo hướng người đại diện vốn chủ sở hữu là người giám sát của nhà nước, người điều hành doanh nghiệp nhà nước được hưởng lợi ích theo cơ chế thị trường. Người giám sát sẽ có trách nhiệm giám sát hoạt động của doanh nghiệp nhà nước hoặc được bổ nhiệm làm thành viên hội đồng quản trị của doanh nghiệp nhà nước. Để đảm bảo người được bổ nhiệm trong hội đồng quản tị của doanh nghiệp nhà nước làm việc vì lợi ích của nhà nước thì người được bổ nhiệm không được nhận lương hay tiền của doanh nghiệp. Trong khi đó, chế độ lương bổng cho giám đốc hoặc ban điều hành của doanh nghiệp nhà nước sẽ do hội đồng quản trị đề xuất thông qua hội nghị cổ đông hàng năm. Lương cho giám đốc, ban điều hành cần đảm bảo tính cạnh tranh trên thị trường.

- Doanh nghiệp nhà nước phải là khu vực tiên phong về minh bạch thông tin. Cần áp dụng các chuẩn mực tài chính kế toán và công khai hóa thông tin của các thông tin của các công ty niêm yết đối với các doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước cũng cần công khai các mục tiêu chính sách, chỉ rò các chi phí thực hiện để theo đuổi các mục tiêu phi thương mại cũng như các khoản nhận hỗ trợ từ Chính phủ. Bản thân Chính phủ hàng năm cũng cần làm một báo cáo hợp nhất về hoạt động của toàn bộ các công ty quản lý vốn và các doanh nghiệp nhà nước trực thuộc các công ty quản lý vốn.

3.2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam

Thứ nhất, Điều chỉnh mục tiêu, tiến độ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.


Điều chỉnh phương hướng đầu tư từ ngân sách nhà nước nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này, khai thác những lợi thế của đất nước và các nguồn đầu tư bên ngoài để đưa đến mô hình kinh tế hợp lý. Quá trình cổ phần hóa phải dựa trên quan điểm tiết kiệm ngân sách nhà nước, đầu tư khôn ngoan, chứ không phải giải pháp cho những yếu kém trong nền kinh tế nhà nước.

Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước phải hướng tới sự thu hút và tập trung nguồn vốn xã hội vào phát triển kinh tế. Khi đó, các khâu trong quá trình cổ phần hóa sẽ thay đổi, từ việc định giá doanh nghiệp, cơ cấu vốn điều lệ doanh nghiệp cổ phần, cơ cấu cổ đông, tổ chức bộ máy, đến những vấn đề nhân sự khác,... đảm bảo doanh nghiệp hoạt động tốt hơn, có lợi cho người lao động, nhà đầu tư và cho cả nền kinh tế.

Cổ phần hóa phải hướng tới nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhằm góp phần tăng cường chất lượng hàng hóa, dịch vụ cho nền kinh tế, qua đó thúc đẩy quá trình cải thiện năng lực cạnh tranh và tái cơ cấu nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên, không nên chạy theo tiến độ cổ phần hóa bằng mọi giá. Tốc độ cổ phần hóa luôn bị ảnh hưởng bởi yếu tố kinh tế- xã hội bên ngoài. Ví dụ như giai đoạn 2011- 2015 là giai đoạn hậu suy thoái kinh tế, nền kinh tế mới bắt đầu phục hồi chậm từ đó ảnh hưởng đến lượng cổ phần IPO hay bán ra được từ các doanh nghiệp cổ phần hóa. Mặt khác, cổ phần hóa trong bối cảnh tái cơ cấu đòi hỏi phải tiến hành tái cơ cấu doanh nghiệp trước khi cổ phần hóa. Cần dành thời gian cho tái cơ cấu doanh nghiệp

thay vì chạy theo tiến độ, hoàn thành cổ phần hóa ngay. Cuối cùng, điều quan trọng đối với doanh nghiệp cổ phần hóa không chỉ là hoàn thành cổ phần hóa, đăng ký doanh nghiệp thành công ty cổ phần, mà chủ yếu ở việc quản trị doanh nghiệp, hiện đại hóa doanh nghiệp để tăng sức cạnh tranh. Điều này cần nhiều thời gian hơn.

Thứ hai, Thay đổi mô hình quản trị doanh nghiệp theo hướng hiện đại.


Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước phải xác định rò ai là chủ sở hữu thực tế của công ty cổ phần, chủ sở hữu phải gắn với trách nhiệm của công ty như thế nào? Ai đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước trong công ty cổ phần?

Cần vận dụng quy chế quản trị công ty nhằm tạo ra môi trường đầu tư minh bạch và lành mạnh. Cần lựa chọn giám đốc phù hợp với quy chế quản trị công ty, sớm đào tạo và bố trí các giám đốc tài chính công ty. Nhà nước cần hoàn chỉnh cơ chế quản lý doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Cụ thể là cần xác định được chủ sở hữu Nhà nước một cách rò ràng, tách bạch bộ máy quản lý nhà nước với bộ máy thực hiện quyền chủ sở hữu. Nhà nước chỉ tham gia với tư cách cổ đông. Định hướng phát triển doanh nghiệp phải do đại hội cổ đông quyết, nhằm tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tính sáng tạo trong kinh doanh của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội. Điều này cũng sẽ hạn chế được tình trạng "bình cũ rượu mới" ở các doanh nghiệp sau cổ phần hóa như hiện nay. Bên cạnh việc trao quyền tự chủ cho doanh nghiệp, thì các doanh nghiệp sau cổ phần hóa cũng phải đặc biệt chú ý tới công tác quản trị nhân sự. Cần có chính sách tuyển dụng theo cơ chế thị trường, có chính sách đãi ngộ phù hợp để có thể tuyển dụng và giữ được các chuyên gia, những nhà quản lý giỏi. Đồng thời, doanh nghiệp cũng cần có chính sách đào tạo đội ngũ nhằm liên tục nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên đáp ứng kịp thời các yêu cầu đổi mới của nền kinh tế và thị trường.

Cần nhanh chóng thay đổi cơ chế quản lý, giám sát, kiểm tra đối với doanh nghiệp nhà nước, xóa bỏ ngay cơ chế bộ chủ quản đối với doanh nghiệp nhà nước, nhanh chóng thành lập cơ quan ngang bộ, chuyên trách quản lý các doanh nghiệp nhà nước.

Cho phép các địa phương tiếp nhận vốn thu hồi được từ việc tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước thuộc địa phương quản lý và thành lập để địa phương

tăng cường nguồn thu ngân sách phục vụ sự nghiệp đầu tư phát triển địa phương mình. Hiện nay Chính phủ quy định các doanh nghiệp nhà nước ở địa phương khi cổ phần hóa đều phải chuyển phần vốn thu hồi do bán cổ phần cho SCIC quản lý, mặc dù vốn này trước đây do ngân sách địa phương đầu tư. Đây là một vướng mắc trong cơ chế quản lý vốn sau cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở địa phương mà các địa phương đều gặp phải khi tiến hành cổ phần hóa. Do đó, thời gian qua, nhiều địa phương không mặn mà với việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước do địa phương mình quản lý và đầu tư. Hơn nữa, hiện tổng vốn chủ sở hữu hiện nay của khu vực doanh nghiệp nhà nước cả nước là hơn 1 triệu tỷ đồng, nhưng trong đó, riêng 32 doanh nghiệp của khối doanh nghiệp trung ương quản lý đã chiếm đến 94% vốn chủ sở hữu và chiếm đến 95% tổng doanh thu của cả khu vực doanh nghiệp nhà nước cả nước. Như vậy, vốn nhà nước ở các doanh nghiệp địa phương là rất nhỏ. Do đó, trong thời gian tới, chính phủ nên cho phép phần vốn thu hồi sau cổ phần hóa, thoái vốn của các doanh nghiệp nhà nước địa phương sẽ do địa phương quản lý.

Thứ ba, Đổi mới nhận thức về cổ phần hóa.


Cổ phần hóa không phải chỉ để chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, kết thúc ở đăng ký doanh nghiệp thành công ty cổ phần mà là một quá trình. Sau cổ phần hóa phải tiếp tục tiến hành thoái vốn nhà nước, quản trị doanh nghiệp, hiện đại hóa công ty cổ phần. Vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước phải thay đổi theo từng giai đoạn. Khi có sự mở cửa, hội nhập, có sự cạnh tranh minh bạch giữa các khu vực kinh tế thì vai trò của kinh tế nhà nước hay doanh nghiệp nhà nước buộc phải xem xét lại, có thể trở thành không quan trọng. Việc bán cổ phần cho người lao động, nhà nước có nên chấp nhận thực tế là việc giữ lại hay bán đi cổ phần là quyền của người lao động? Ở giai đoạn sau cổ phần hóa, việc chuyển nhượng cổ phần là thuộc quyền của cổ đông, miễn là họ tuân thủ pháp luật, điều lệ và không vi phạm các quy định về cạnh tranh và chống độc quyền. Đối với những doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn như tập đoàn kinh tế, tổng công ty hoạt động trong những ngành, lĩnh vực quan trọng, việc cổ phần hóa cần phải có sự chọn lọc và bước đi phù hợp với điều kiện của đất nước cũng như định hướng phát triển kinh tế của Đảng. Việc cổ phần hóa không thể thực hiện ồ ạt mà phải được tiến hành theo nhiều giai đoạn phù

hợp với kế hoạch và lộ trình giảm dần tỷ lệ vốn nhà nước. Phải có hướng dẫn cụ thể và các bước triển khai thận trọng khi cổ phần hóa.

Thứ tư, Việc lựa chọn nhà đầu tư chiến lược phải được nhìn nhận từ 2 phía là nhà đầu tư và doanh nghiệp cổ phần hóa.

Từ phía nhà đầu tư, đó là những nhà đầu tư có tiềm lực tài chính, thực sự quan tâm đến sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp, họ có khả năng công nghệ, thị trường, có kinh nghiệm, đáp ứng những yêu cầu phát triển doanh nghiệp sau cổ phần hóa.

Từ phía doanh nghiệp cổ phần hóa, xem xét những doanh nghiệp nào cần nhà đầu tư chiến lược. Không phải mọi doanh nghiệp sau cổ phần hóa đều cần nhà đầu tư chiến lược. Cổ đông chiến lược cần cho những doanh nghiệp có vấn đề về chiến lược, thị trường, công nghệ, cần cải thiện quản trị doanh nghiệp, cần tạo ra động lực mới và mạnh hơn cho sự phát triển. Những doanh nghiệp đang hoạt động tốt, có hiệu quả nếu không tìm được ngay nhà đầu tư chiến lược thì cứ tiến hành cổ phần hóa, sau đó thoái vốn nhà nước tiếp hoặc phát hành thêm cổ phiếu để tìm nhà đầu tư chiến lược

Thứ năm, Hoàn thiện, cập nhật hệ thống văn bản pháp luật về cổ phần hóa.


Các bộ, ngành nhanh chóng ban hành các quyết định hướng dẫn triển khai nghị quyết số 15/NQ-CP để làm cơ sở triển khai đẩy mạnh tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời, Chính phủ cần sớm ban hành các cơ chế, chính sách làm cơ sở pháp lý cho việc quản lý doanh nghiệp nhà nước như: quy chế quản trị công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên sở hữu nhà nước, quy chế về nhà quản trị tại doanh nghiệp nhà nước 100% vốn sở hữu, doanh nghiệp nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ, quy định về cổ phần hóa bộ phận các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa. Thiết nghĩ, nước ta có nên xây dựng luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước? Vì cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là vấn đề lớn, làm thay đổi sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, thay đổi vị trí kinh tế nhà nước trong phạm vi ngành và nền kinh tế. Việc ban hành luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là cần thiết để tạo nền tảng pháp lý cao hơn, vững chắc hơn cho cổ phần hóa những doanh nghiệp có quy mô lớn, những doanh nghiệp quan trọng, doanh nghiệp trong các ngành đặc thù như an ninh, quốc phòng, ...

Xem tất cả 99 trang.

Ngày đăng: 20/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí