Bản Chất Của Cổ Phần Hoá Các Doanh Nghiệp Nhà Nước Ở Việt Nam

cơ sở và những điều kiện cụ thể khắc phục tình trạng trên. Thật vậy, hiện nay nền kinh tế thị trường phát triển mạnh làm cho khả năng tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng. Cùng với quá trình xã hội hoá tư bản, các chế độ tín dụng, các thị trường vốn, lao động, tư liệu lao động gắn liền với KHKT…. cũng phát triển rộng rãi với quy mô ngày càng lớn là những điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện CPH không chỉ ở các DNNN. Việc CPH các DNNN cho ra sản phẩm là các Công ty Cổ phần. Mặc dù ở Việt Nam vấn đề CPH DNNN được đặt ra từ những năm 90 và hiện nay tiến trình CPH mới bước ra khỏi giai đoạn thí điểm với tốc độ CPH diễn ra chậm nhưng những thực tế kết quả bước đầu gặt hái được trong việc CPH các DNNN cho thấy đây là một giải pháp hữu hiệu trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đối với các doanh nghiệp nói chung và DNNN nói riêng.

Thứ tư: Do những ưu điểm nổi bật của Công ty Cổ phần.

Nhận thấy việc chuyển đổi hay đổi mới hình thức sở hữu trong các DNNN để cải thiện tình hình là một xu thế tất yếu khách quan nhưng chúng ta có thể tự đặt ra một câu hỏi rằng tại sao các DNNN lại chuyển mình thành Công ty Cổ phần mà không phải là một hình thức khác nào đó như hình thức kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể, cá thể…? Lý do là bởi vì Công ty Cổ phần là một mô hình tổ chức doanh nghiệp đạt trình độ xã hội cao và rất có hiệu quả. Sức hấp dẫn của nó thể hiện ở các mặt sau đây:

Đối với cổ đông: Đem lại cho họ lợi tức Cổ phần và còn có thể mang lại một khoản thu nhập nhờ việc tăng giá trị Cổ phiếu khi Công ty làm ăn có hiệu quả. Họ có quyền được thông tin và tham gia ý kiến vào phương hướng phát triển Công ty, và họ có quyền chuyển nhượng Cổ phiếu, được ưu đãi trong việc mua những Cổ phiếu mới phát hành thêm của Công ty trước khi chúng được đem bán rộng rãi.

Đối với doanh nghiệp: Doanh nghiệp sẽ thu hút được một lượng vốn nhất định để đầu tư cho sản xuất-kinh doanh, tạo điều kiện mở rộng, nâng cao năng

lực công nghệ, sản phẩm, cho phép tuyển chọn và tập hợp những nhà quản lý, kinh doanh giỏi vào bộ máy quản lý của Công ty.

Đối với xã hội: Việc phát hành Cổ phiếu của Công ty Cổ phần và việc tự do chuyển nhượng Cổ phiếu góp phần làm cho tiền vốn trong xã hội được lưu thông liên tục, thu hút vốn từ nhiều kênh lớn nhỏ đổ vào các Công ty có tỷ suất lợi nhuận cao, vào những ngành và lĩnh vực có triển vọng, nhờ đó góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ.

2. Bản chất của Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam

Sự ra đời của các DNNN là một sản phẩm tất yếu của mọi quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị. Các DNNN ra đời theo những giai đoạn lịch sử khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia song nó đều mang một ý nghĩa chung, đó là DNNN được lập ra nhằm tăng nguồn thu ngân sách phục vụ cho lợi ích chung của xã hội. Tuy nhiên, DNNN không phải là sản phẩm độc quyền của một quốc gia nào. Để huy động được một cách tốt nhất nguồn vốn xã hội, đồng thời giảm đến mức ít nhất nguồn vốn đầu tư của Nhà nước mà lại thu được nhiều thuế nhất và vẫn đảm bảo phát triển đất nước đòi hỏi Nhà nước cần phải thực hiện lộ trình tư nhân hoá, chuyển giao các DNNN cho nhân dân, từng bước thoát khỏi vị trí là nhà đầu tư.

Như vậy, Nhà nước cần tiến hành xã hội hoá đầu tư, xây dựng môi trường đầu tư lành mạnh để mọi công dân đều có cơ hội đầu tư bình đẳng như nhau, tạo điều kiện để mọi công dân đều có cơ hội thành lập doanh nghiệp, tạo việc làm cho xã hội. Việc xã hội hoá đầu tư chính là cách khai thác một cách hiệu quả và hợp lý kho tàng chất xám của nhân dân.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 107 trang tài liệu này.

Công cuộc xã hội hóa đầu tư đòi hỏi Nhà nước phải thoát khỏi vai trò là nhà kinh doanh thông qua con đường chuyển đổi sở hữu các DNNN cho các cá nhân và tổ chức dân doanh. Quá trình này các nước gọi là tư nhân hoá còn nước ta gọi là CPH. Như vậy, CPH DNNN chính là một hình thức cụ thể của tiến trình xã hội hoá đầu tư. Nhờ sự xuất hiện của Công ty Cổ phần mà vốn

được tập trung nhanh chóng. Thực hiện tốt CPH DNNN sẽ làm tăng sức mạnh của kinh tế Nhà nước, làm chỗ dựa cho Nhà nước điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Mặt khác, nó cũng là một giải pháp để tăng tính năng động trong kinh doanh và phát huy tích cực, tự chủ của doanh nghiệp.

Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 5

Khái niệm CPH thực ra còn tiềm ẩn vai trò đầu tư của Nhà nước, ngay cả khi đã chuyển DNNN thành Công ty Cổ phần thì Nhà nước vẫn có thể nắm giữ các phần vốn nhất định, thậm chí là chi phối các Công ty Cổ phần. Như vậy, số vốn của Nhà nước vẫn chưa được giải phóng một cách triệt để và Nhà nước vẫn là một nhà đầu tư thực thụ. Với lập luận này thì ngay cả khi DNNN kinh doanh rất có hiệu quả thì Nhà nước vẫn phải bán các doanh nghiệp của mình để thu tiền về cho ngân sách, để làm những việc dân không làm được hoặc không muỗn làm vì không có lời, nhưng vì lợi ích xã hội, Nhà nước vẫn phải đầu tư. Như vậy, Nhà nước sẽ chỉ đầu tư vào các lĩnh vực công cộng phục vụ cộng đồng, Nhà nước không còn vai trò là nhà kinh doanh mà chỉ tập trung nhân tài vật lực vào việc nghiên cứu chính sách pháp luật, giữ gìn trật tự an ninh quốc gia. Với cách hiểu này, có thể coi CPH DNNN là một hình thức cải cách DNNN.

Ở nước ta, phần lớn các DNNN được hình thành do ý chí chủ quan của các cơ quan Nhà nước chứ không phải do yêu cầu khách quan của trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự hoạt động kém hiệu quả của hầu hết các doanh nghiệp ấy. Do vậy, việc CPH DNNN hiện đang là một trong những vấn đề mà Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. CPH DNNN ở nước ta là quá trình chuyển sang một hình thức quản lý hiện đại hơn, bên cạnh vai trò chi phối của Nhà nước, có sự tham gia của các thành phần khác. Đảng và Nhà nước ta khẳng định CPH không phải là tư nhân hoá vì CPH hướng tới tháo gỡ khó khăn về vốn, về cơ chế cho DNNN hiện có, không nhằm thu hẹp sở hữu Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân. Từ năm 1992 đến nay, quan điểm của Đảng ta về CPH DNNN ngày càng

sáng tỏ, ngày càng phù hợp với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

3. Vai trò của Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam

Thực hiện chủ trương đổi mới, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta đã xác định CPH DNNN là một nội dung đặc biệt quan trọng trong tiến trình đổi mới và phát triển hệ thống DNNN. Mục tiêu của chương trình CPH là đa dạng hoá sở hữu đối với các doanh nghiệp, nhằm huy động thêm vốn và kinh nghiệm của toàn xã hội vào phát triển sản xuất-kinh doanh, tạo động lực mới và phát huy quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Mục tiêu này cho thấy CPH DNNN có vai trò rất lớn đối với sự phát triển toàn diện của đất nước.

3.1. Cổ phần hoá góp phần xây dựng một Nhà nước mạnh

Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đang trong đà tăng trưởng cao, việc chuyển đổi cơ cấu giữa các khu vực kinh tế trong nước đang diễn ra một cách mạnh mẽ. Vì vậy, để đảm bảo tài chính, đòi hỏi Nhà nước phải có nguồn vốn ngân sách đủ mạnh. CPH sẽ giúp Nhà nước thu hồi vốn đóng góp vào ngân sách để phân bổ lại cho thích hợp với cơ cấu kinh tế hiện tại. Ngoài ra với tình trạng hoạt động sản xuất kinh doanh hiện nay của DNNN thì CPH sẽ giúp cho Nhà nước giảm bớt các khoản tài trợ cho các DNNN kinh doanh kém hiệu quả, khuyến khích các Công ty có điều kiện tự thân vận động trong nền kinh tế thị trường, đây là mục tiêu chính của Nhà nước trong quá trình CPH. Thông qua việc bán Cổ phần người dân có thể trực tiếp làm chủ doanh nghiệp và doanh nghiệp thu hút được lượng vốn nhàn rỗi trong nhân dân để đầu tư sản xuất kinh doanh mang lại ích lợi cho xã hội còn người lao động thì sẽ được hưởng lợi tức xứng đáng với số vốn và công lao của mình đã đóng góp vào doanh nghiệp.

CPH là con đường để tạo nên hiệu quả cho đầu tư xã hội, vì thực hiện CPH tạo ra những lợi ích to lớn cho Nhà nước, cụ thể là:

- Nhà nước sẽ thu được tiền về từ việc bán Cổ phần, số tiền này có thể dùng để đầu tư vào xây dựng hạ tầng cơ sở phục vụ dân sinh.

- Nhà nước không phải lo quản lý doanh nghiệp, giảm số tiền cấp vốn lưu động hàng năm, giảm số người quản lý và các bộ máy quản lý đại diện chủ sở hữu, có điều kiện tập trung xây dựng chính sách phát triển kinh tế.

- Tạo điều kiện xã hội hoá đầu tư, phát triển dân trí.

- Tạo ra nguồn thu ngân sách nhiều hơn vì số lượng doanh nghiệp không giảm đi, ngược lại sẽ tăng thêm, Nhà nước sẽ thu được nhiều thuế hơn.

- Giảm thiểu tối đa điều kiện tham nhũng của bộ máy công chức, tránh được lãng phí trong đầu tư.

- Tạo được sự minh bạch về sở hữu, cân bằng lợi ích, tạo động lực thúc đẩy xã hội phát triển.

Như vậy, CPH triệt để sẽ tạo nên những nguồn lực mới cho xã hội, thực hiện được mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", phát triển kinh tế quốc dân.

3.2. Cổ phần hoá góp phần tăng cường hiệu quả đầu tư của toàn xã hội

DNNN kinh doanh không hiệu quả sẽ làm lãng phí, thất thoát nguồn lực quốc gia. Khi Nhà nước cấm dân kinh doanh thì DNNN không có đối thủ cạnh tranh, hình thành cơ chế sản xuất quan liêu bao cấp. Thực tế ở nước ta cho thấy phần lớn các DNNN hoạt động không hiệu quả. Nguyên nhân chính của vấn đề này là do sự không minh bạch về sở hữu. Chính sự tù mù về sở hữu đã làm triệt tiêu động lực của mọi người, làm tăng các chi phí để nuôi bộ máy đại diện sở hữu cồng kềnh và hệ thống các cá nhân có liên quan tới họ. Tiến hành CPH sẽ giải quyết được vấn đề về sở hữu, từ đó làm tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, góp phần tăng cường hiệu quả đầu tư của toàn xã hội.

3.3. Cổ phần hoá đối với sự tăng trưởng của đất nước

Thực tế ở nước ta cho thấy tăng trưởng của khu vực kinh tế Nhà nước là một yếu tố quyết định trực tiếp đến sự tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên, phần lớn các DNNN lại hoạt động không hiệu quả. Vì vậy, muốn đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững thì cần phải cơ cấu lại thành phần kinh tế này thông qua thực hiện CPH DNNN. Vai trò của việc CPH đối với sự tăng trưởng kinh tế được biểu hiện cụ thể như sau:

- CPH làm giảm số lượng các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, do đó sẽ giảm bớt được một khoản bổ sung vốn từ ngân sách cho những doanh nghiệp này để dành đầu tư vào những nhu cầu phát triển khác.

- Thông qua CPH, Nhà nước thu được một phần giá trị tài sản Nhà nước trước đây giao cho doanh nghiệp quản lý nhưng sử dụng kém hiệu quả. Khoản tiền này sẽ được đầu tư trở lại để phát triển doanh nghiệp, làm tăng thêm phần giá trị tài sản còn lại của Nhà nước tại các doanh nghiệp đó, bảo đảm quyền lợi cho các cổ đông khác, cho người lao động cũng như giải quyết các vấn đề phát sinh từ quá trình CPH.

- Cùng với việc giảm đầu mối DNNN sẽ làm giảm nhu cầu hỗ trợ và ưu đãi tín dụng của Nhà nước. Điều này sẽ làm giảm bớt áp lực vay vốn lên các Ngân hàng thương mại quốc doanh và các Quỹ tín dụng Nhà nước. Thực trạng tài chính của các ngân hàng này được lành mạnh hoá và cơ hội để các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác tiếp cận các nguồn vốn vay sẽ mang tính bình đẳng và thị trường hơn.

- Sự tồn tại của các Công ty Cổ phần với cơ chế lưu chuyển Cổ phần thông qua thị trường chứng khoán tạo ra quá trình luân chuyển vốn từ nơi không có hiệu quả hoặc hiệu quả thấp sang nơi có hiệu quả cao hơn. Toàn bộ các nguồn lực xã hội nằm trong các Công ty Cổ phần sẽ được sử dụng có hiệu quả hơn.

- Nếu biết tận dụng những lợi thế sẵn có của mình và những hỗ trợ ban đầu về cơ chế, chính sách của Nhà nước thì các Công ty Cổ phần có khả năng nhanh chóng vươn lên khẳng định vị thế và chiếm lĩnh thị trường. Điều này sẽ tạo áp lực cạnh tranh mạnh mẽ đối với các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế, từ đó tạo thành một vòng xoáy thúc đẩy sự tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế.

- Bên cạnh đó, CPH tạo tiền đề hình thành thị trường chứng khoán tại Việt Nam.

Việt Nam cũng như các nước đang phát triển đang lâm vào tình trạng thiếu vốn mà lại thừa lao động. Để phát triển kinh tế thì nhu cầu về vốn là nhu cầu không thể thiếu được, để giải quyết vấn đề này thì phải hình thành được một thị trường tài chính trong nước. CPH các DNNN là cái móng cơ sở tạo tiền đề cho sự hình thành thị trường tài chính ở Việt Nam và cũng chính là tạo tiền đề cho quá trình phát triển kinh tế hiện nay. Một thị trường tài chính không thể hình thành khi không có cái gì để mua bán trên thị trường cụ thể là các Cổ phiếu do các Công ty Cổ phần phát hành. Trên thực tế cho thấy thị trường chứng khoán đến nay vẫn chưa thực sự đi vào hoạt động, vì tiến trình CPH diễn ra quá chậm chạp và các doanh nghiệp đã CPH có số vốn nhỏ không đủ điều kiện tham gia vào thị trường chứng khoán.

3.4. Cổ phần hoá đối với đời sống kinh tế của người lao động

CPH làm cho sở hữu doanh nghiệp đa dạng hơn, vì vậy tạo cho những người lao động cơ hội thực sự làm chủ doanh nghiệp. Bằng việc sở hữu các Cổ phần trong doanh nghiệp, người lao động có thể tham gia vào việc quyết định các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao tính chủ động, tích cực của người lao động không chỉ đối với các vấn đề của doanh nghiệp mà cả đối với các vấn đề kinh tế-chính trị-xã hội đất nước.

3.5. Cổ phần hoá đối với vấn đề tham nhũng

Ở nước ta hiện nay, tham nhũng đang là một vấn đề lớn của xã hội. Tình trạng này đang là một trở lực lớn cho sự phát triển bền vững của đất nước. Một trong những nguyên nhân quan trọng của nạn tham nhũng là do cơ chế quản lý của Nhà nước còn nhiều bất hợp lý, nhiều thủ tục hành chính phiền hà còn chưa được dở bỏ, quyền tự do dân chủ của công dân có lúc, có nơi còn chưa được tôn trọng thực sự. Hơn nữa, sự thiếu minh bạch trong hoạt động quản lý tạo điều kiện thuận lợi cho những người thực thi quyền Nhà nước lợi dụng.

CPH DNNN ở nước ta có tác dụng rất lớn trong việc đẩy lùi tình trạng lãng phí, tham nhũng đang khá phổ biến trong DNNN và những cơ quan quản lý chúng. Sự bao cấp của Nhà nước đối với nhiều doanh nghiệp, cơ chế xin- cho là mảnh đất tốt lành cho những hành động lãng phí, tham nhũng. CPH tạo ra sự giám sát chặt chẽ của chủ sở hữu (cổ đông) đối với Giám đốc và cán bộ quản lý DNNN. Điều này có nghĩa là Giám đốc, các nhân viên quản lý không dễ dàng thực hiện hành vi vụ lợi như khi DNNN đang hoàn toàn thuộc sở hữu của Nhà nước.

4. Mục tiêu của Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam

Để đổi mới và phát triển có hiệu quả khu vực kinh tế Nhà nước nhằm phát huy vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường, phải CPH DNNN, chuyển chúng thành Công ty Cổ phần nhằm đáp ứng nhu cầu tăng vốn dài hạn cho nền kinh tế, nâng cao năng lực, hiệu quả kinh doanh, tạo thêm việc làm và thu nhập cho người lao động. Ở nước ta, CPH DNNN không phải là tư nhân hoá mà là quá trình tăng cường sức mạnh kinh tế của đất nước, lành mạnh hoá, năng động hoá và hiệu quả hoá nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây được coi là giải pháp cơ bản để điều chỉnh mối tương quan giữa sở hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị trường hỗn hợp nhằm đạt mục tiêu phát triển có hiệu quả bền vững và bảo đảm công bằng xã hội.

Xem tất cả 107 trang.

Ngày đăng: 30/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí