Nghị quyết số 15/NQ-CP đã thể hiện quyết tâm đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước của chính phủ, các bộ, ngành và địa phương. Từ đầu năm 2014, Bộ giao thông vận tải đã liên tiếp tiến hành IPO các tổng công ty thuộc ngành, Bộ xây dựng cũng đẩy mạnh IPO các doanh nghiệp do bộ quản lý. Các địa phương cũng đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Cụ thể, tại thành phố Hồ Chí Minh đã xây dựng kế hoạch cổ phần hóa 29 doanh nghiệp lớn. Vào ngày 13/3/2014, lãnh đạo 29 doanh nghiệp đã ký cam kết hoàn thành cổ phần hóa trước tháng 12/2015. Thành phố Hà Nội cũng đã đặt mục tiêu sắp xếp cổ phần hóa 27 doanh nghiệp thuộc thành phố quản lý trong năm 2014. Trong đó, cổ phần hóa 11 doanh nghiệp, 9 bộ phần doanh nghiệp.
Giai đoạn 2011- 2015, tiến trình cổ phần hóa diễn ra còn chậm do nhiều nguyên nhân như:
Tư duy về cổ phần hóa không thay đổi khi vẫn cho rằng doanh nghiệp nhà nước phải nắm giữ vai trò chủ đạo, nếu giảm số lượng doanh nghiệp nhà nước sẽ làm giảm vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước nói riêng và khu vực kinh tế nhà nước nói chung. Mặt khác, một số lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước vẫn giữ tư duy lo ngại sẽ mất hoặc giảm quyền kiểm soát doanh nghiệp khi chuyển thành công ty cổ phần nên chưa tập trung cho cổ phần hóa, chủ động làm chậm lại quá trình cổ phần hóa. Người đứng đầu doanh nghiệp là những người có quyền quyết định đến quyết tâm cổ phần hóa hay làm chậm lại quá trình cổ phần hóa. Giai đoạn này, họ có nhiều lý do hơn có thể nêu ra về khó khăn, trở ngại, vấn đề cần cân nhắc để kéo lùi thời gian cổ phần hóa như kinh tế suy giảm, thị trường chứng khoán chưa khởi sắc, vấn đề định giá doanh nghiệp,... Tâm lý của những người đứng đầu doanh nghiệp là vấn đề không mới và không chỉ riêng Việt Nam mới xuất hiện vấn đề này.
Cơ chế, chính sách chưa ban hành kịp thời. Doanh nghiệp cổ phần hóa trong giai đoạn này đa phần là các doanh nghiệp có quy mô vừa, lớn và rất lớn. Quy mô này làm cho hoạt động cổ phần hóa trở nên phức tạp, đặc biệt trong việc định giá doanh nghiệp. Các tập đoàn kinh tế và tổng công ty buộc phải tái cơ cấu trước khi tiến hành cổ phần hóa như phải sắp xếp lại sản xuất, tái cơ cấu lại ngành nghề kinh doanh, thoái vốn đầu tư ngoài ngành kinh doanh chính, cơ cấu lại tổ chức, bộ máy, cán bộ, lao động, ... Tuy nhiên, các văn bản pháp lý không được ban hành kịp thời
khiến các doanh nghiệp bối rối trong việc tiến hành. Từ đó là chậm lại quá trình cổ phần hóa.
Tình hình kinh tế vĩ mô biến động mạnh, thị trường chứng khoán không thuận lợi, bong bóng chứng khoán vỡ năm 2008 ảnh hưởng đến giai đoạn này. Kinh tế vĩ mô không thuận lợi, kinh tế suy giảm ảnh hưởng lớn đến cầu của thị trường, từ đó ảnh hưởng đến IPO các doanh nghiệp cổ phần hóa. Mặt khác, giai đoạn này, Chính phủ và các bộ ngành tập trung nhiều nỗ lực vào điều hành ổn định kinh tế vĩ mô vì thế cũng ảnh hưởng đến các nỗ lực thực hiện cổ phần hóa và tiến độ cổ phần hóa.
3.1.4. Đánh giá toàn bộ quá trình cổ phần hóa đến nay
Nhìn chung, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước từ năm 1990 đến nay đã đạt được một số kết quả nhất định: Tổng số doanh nghiêp cổ phần hóa tính đến hết năm 2013 là 4.065, tính đến tháng 9/2014 là 4.136 doanh nghiệp, trong đó bao gồm 3.650 doanh nghiệp và 415 bộ phận doanh nghiệp. Số doanh nghiệp 100% vốn nhà nước tính đến hết năm 2013 là 949 doanh nghiệp. Qua đó, doanh nghiệp nhà nước đã tập trung hơn nữa vào những ngành, lĩnh vực then chốt, quan trọng mà nhà nước nắm giữ.
Các cơ chế, chính sách về cổ phần hóa tiếp tục được hoàn thiện theo hướng tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp thực hiện. Quá trình cổ phần hóa đã tạo nhiều tác động tích cực đối với doanh nghiệp cổ phần hóa và toàn bộ khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Đối với doanh nghiệp, cổ phần hóa đem lại tính năng động, tích cực hơn trong quản trị, điều hành, nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động.
Có thể bạn quan tâm!
- Những vấn đề pháp lý về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam - 6
- Chính Sách Đối Với Doanh Nghiệp Sau Cổ Phần Hóa
- Những vấn đề pháp lý về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam - 8
- Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Về Cổ Phần Hóa Doanh Nghiệp Nhà Nước
- Những vấn đề pháp lý về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam - 11
- Những vấn đề pháp lý về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam - 12
Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.
Đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa đã làm giảm đáng kể số lượng doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, từ 12.000 doanh nghiệp nhà nước năm 1990 xuống còn 909 doanh nghiệp cuối năm 2013. Nhờ đó thu hẹp ảnh hưởng của khu vực doanh nghiệp nhà nước, phân bổ lại nguồn của nền kinh tế, chuyển dịch một số nguồn lực từ khu vực doanh nghiệp nhà nước như tài chính, tín dụng, nhân lực, đất đai, ... sang khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước và khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để sử dụng có hiệu suất, hiệu quả hơn. Thông qua đó tạo điều kiện thúc đẩy sự tham gia của 2 khu vực kinh tế tư nhân trong nước và nước ngoài vào phát
triển kinh tế đất nước. Có thể thấy, tuy tỷ trọng của khu vực kinh tế nhà nước trong GDP giảm từ 40% xuống còn 28% nhưng với sự tăng trưởng mạnh hơn của khu vực kinh tế tư nhân trong nước và đầu tư nước ngoài nên nền kinh tế vẫn đảm bảo tốc độ tăng trưởng khá cao.
Tuy nhiên, nếu so sánh với kế hoạch đặt ra thì tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nhìn chung vẫn diễn ra chậm. Giai đoạn 2002- 2010, số lượng doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa chỉ bằng 1/3 so với kế hoạch đặt ra. Giai đoạn 2011- 2015, theo kế hoạch phải cổ phần hóa được 531 doanh nghiệp. Nhưng giai đoạn 2011- 2013 mới cổ phần hóa được 99 doanh nghiệp, chiếm 18,6% kế hoạch. Vậy năm 2014- 2015 phải cổ phần hóa 432 doanh nghiệp còn lại. Như vậy, từ năm 2011 đến hết tháng 9/2014, cổ phần hóa được 170 doanh nghiệp chỉ đạt 32% kế hoạch giai đoạn 2011- 2015. Đánh giá về 432 doanh nghiệp nhà nước phải cổ phần hóa từ năm 2014 đến hết năm 2015, ông Trần Văn Dũng- Chủ tịch Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội cho rằng “Đó là một mục tiêu lớn, cần nhiều sự nỗ lực và sáng tạo để thực thi. Theo đó, cùng với việc có chính sách phù hợp về định giá doanh nghiệp nhà nước, xử lý chế độ của người lao động thì theo tôi, cần đa dạng hình thức bán vốn của doanh nghiệp nhà nước và xây dựng lộ trình bán hợp lý, phù hợp với nhu cầu của thị trường. Một điểm quan trọng khác cũng cần được lưu ý trong cổ phần hóa là mục tiêu đại chúng hóa doanh nghiệp nhà nước có tầm quan trọng số 1, vì thế, không nên đặt nặng việc bán theo giá nào, mà cần tôn trọng quy luật cung cầu và hãy để thị trường xác định giá mua – bán”.
Mục tiêu đặt ra giai đoạn này không thể hoàn thành khi những doanh nghiệp phải tiến hành cổ phần hóa đều là những doanh nghiệp lớn, việc định giá, xử lý lao động dôi dư, xử lý nợ thuế,... rất phức tạp. Tình hình kinh tế khó khăn, thị trường chứng khoán chưa phục hồi ảnh hưởng tiêu cực đến việc bán cổ phần ra bên ngoài. Bên cạnh đó, chính bản thân doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự minh bạch hóa mọi quy trình cổ phần hóa nên nhà đầu tư còn e ngại khi quyết định đầu tư. Mặt khác, tuy đã cổ phần hóa nhưng doanh nghiệp nhà nước vẫn muốn giữ vị trí chi phối của mình trong nền kinh tế.
Một bộ phận doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa vẫn chưa thoát khỏi cơ chế tập trung quan liêu về tài chính, tổ chức bộ máy và cơ chế quản lý, tức là, doanh nghiệp chưa thực sự hoạt động tuân theo quy luật khách quan của kinh tế thị trường.
Các cổ đông thiểu số trong Công ty cổ phần chưa thực sự phát huy vai trò làm chủ của mình. Cổ đông thiểu số như người lao động còn có tư tưởng “làm công, ăn lương” là chính; còn cổ đông thiểu số bên ngoài chỉ quan tâm đến cổ tức và giá cả cổ phiếu trên thị trường. Vì vậy, chưa phát huy được tác động tích cực của những nhân tố mới đối với hoạt động quản trị doanh nghiệp.
Các hạn chế lớn trong quá trình cổ phần hóa là:
Thứ nhất, chính sách và quy trình cổ phần hóa vẫn dựa trên tư duy cũ.
Từ khâu định giá tài sản doanh nghiệp, cho đến tổ chức quản lý sau khi doanh nghiệp đã cổ phần hóa đều tồn tại nhiều vấn đề. Việc xử lý các vấn đề tài chính trước, trong và sau cổ phần hóa còn nhiều bất cập như: Xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hóa chưa đúng, gây thất thoát và lãng phí tài sản nhà nước trong và sau quá trình cổ phần hóa. Giá trị doanh nghiệp bị xác định thấp, phần lớn cổ phần rơi vào tay một nhóm người. Bên cạnh đó là tình trạng liên kết, gian lận trong đấu thầu. Việc xử lý các khoản nợ tồn đọng gặp nhiều khó khăn, mất thời gian do thiếu sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các ngân hàng, thuế, tài chính. Chất lượng định giá doanh nghiệp của nhiều tổ chức cung ứng dịch vụ thẩm định giá trị có độ tin cậy thấp,. Quy chế lựa chọn, giám sát hoạt động tư vấn và xác định giá trị doanh nghiệp chưa được quy định rò, chưa gắn trách nhiệm của tổ chức tư vấn, định giá với việc bán cổ phần. Quy trình cổ phần hóa từ xây dựng đến thực hiện đề án chưa sát thực tế, còn rườm rà, phức tạp nên kéo dài thời gian cổ phần hóa. Trung bình thời gian cổ phần hóa một doanh nghiệp mất 437 ngày, tổng công ty là 554 ngày. Sau khi cổ phần hóa, nhiều doanh nghiệp vẫn hoạt động như cũ, quản lý nhà nước vẫn chi phối mọi hoạt động kể cả với doanh nghiệp mà vốn nhà nước chưa tới 30% vốn điều lệ. Bộ máy quản lý cũ trong nhiều doanh nghiệp vẫn chiếm giữ 80%.
Thứ hai, tốc độ cổ phần hóa chậm
Quá trình cổ phần hóa diễn ra chậm hơn so với yêu cầu đặt ra do cả nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan như tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới và
những khó khăn của kinh tế trong nước đã ảnh hưởng đến thị trường tài chính, chứng khoán và kế hoạch bán cổ phần ra công chúng của các doanh nghiệp cổ phần hóa cũng như thoái vốn đầu tư. Một số bộ ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước chưa chỉ đạo quyết liệt và tích cực tổ chức triển khai phương án sắp xếp, cổ phần hóa và thoái vốn. Đối tượng sắp xếp, cổ phần hóa hiện nay hầu hết là các doanh nghiệp có quy mô lớn, phạm vi hoạt động rộng, kinh doanh đa ngành nghề, tài chính phức tạp nên cần có nhiều thời gian chuẩn bị, xử lý. Việc thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp có quy mô lớn cần sự tham gia của nhiều nhà đầu tư lớn, có tiềm lực tài chính và năng lực quản trị, đầu tư tốt. Cùng với đó, chưa có những chuyển biến rò nét về việc giảm đầu mối quản lý các doanh nghiệp nhà nước. Tình trạng minh bạch thông tin các doanh nghiệp nhà nước vẫn dậm chân tại chỗ. Các thông tin về hoạt động của doanh nghiệp nhà nước chỉ được biết đến rất chậm qua các báo cáo tổng hợp của Chính phủ thay vì các bản báo cáo tài chính chi tiết như các doanh nghiệp niêm yết. Một số bộ, ngành, địa phương chưa vào cuộc thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước một cách quyết liệt nên vẫn còn tình trạng chậm trễ.
Thứ ba, Quản trị doanh nghiệp sau cổ phần hóa không hiệu quả
Cổ phần hóa làm đa dạng hóa sở hữu, giảm tính ưu thế của sở hữu nhà nước. Cổ phần hóa chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần với cấu trúc quản trị hiện đại. Sau cổ phần hóa, quản trị doanh nghiệp tiếp tục được cải thiện theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, trên thực tế, quản trị doanh nghiệp tại các doanh nghiệp sau cổ phần hóa nhìn chung chưa có nhiều chuyển biến, thay đổi rò rệt. Nhiều doanh nghiệp vẫn áp dụng các phương thức, biện pháp quản trị của doanh nghiệp nhà nước trước đây. Bản thân doanh nghiệp dù đã tiến hành xong cổ phần hóa nhưng không nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề thay đổi mô hình quản trị cũng như tâm lý “ngại thay đổi” và “dựa dẫm” nên vẫn rập khuôn áp dụng mô hình quản trị cũ. Điều này được lý giải là do phần lớn các chức danh quản lý như giám đốc, phó giám đốc và kế toán trưởng vẫn do những người cũ nắm giữ. Phần lớn cổ phần của các vị trí quan trong khác cũng do người trong nội bộ doanh nghiệp nắm giữ. Những “con người cũ” với “tâm lý cũ” nên còn chậm thay đổi là không thể tránh khỏi.
Mặc dù có những doanh nghiệp đã thực hiện và áp dụng các quy trình, cách thức quản trị mới nhưng cách làm còn mang nặng tính hình thức, chưa chú trọng vào
chất lượng thực sự. Không phải doanh nghiệp nào cũng áp dụng đầy đủ quy trình của việc hoạch định chiến lược như nghiên cứu thị trường, đánh giá các yếu tố kinh tế, phân tích điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp, lập dự thảo các phương án chiến lược,... hay không phải doanh nghiệp nào cũng thực hiện đầy đủ quy trình trong hoạt động tuyển dụng nhân sự, đảm bảo thực hiện đầy đủ lợi ích cho người lao động…. Nguyên nhân thứ nhất là do các doanh nghiệp chỉ làm cho có hình thức, làm đẹp cho hình ảnh của doanh nghiệp nhằm thu hút các cổ đông đầu tư chứ không phải mục đích nâng cao chất lượng quản lý thực sự cho doanh nghiệp. Nguyên nhân thứ hai là do các quy trình, yêu cầu của hoạt động quản trị chặt chẽ và phức tạp, đòi hỏi đầu tư nhiều thời gian và công sức để thực hiện khiến cho một số công ty phải lược bỏ bớt một vài nội dung để đơn giản hóa quy trình dẫn đến tính hình thức. Thêm vào đó, yếu tố tài chính cũng là một trở ngại lớn cho các doanh nghiệp. Không còn được Nhà nước trợ giúp, không còn những khoản ưu đãi về tài chính nên không phải doanh nghiệp nào cũng sẵn sàng bỏ ra một khoản kinh phí lớn (điều tra, lên kế hoạch, thực hiện, kiểm soát…) để đảm bảo cho chất lượng của hoạt động quản trị. Ngoài ra, kinh nghiệm quản trị còn non yếu cũng là nguyên nhân khiến hoạt động quản trị tại doanh nghiệp mới chỉ ở mức “bề nổi” chứ chưa thực sự đi vào “chiều sâu”.
Hoạt động quản trị chưa cho thấy tính mới, sáng tạo và khoa học. Nguyên nhân là do bộ máy quản lý của doanh nghiệp phần lớn vẫn là các cá nhân cũ với tư tưởng cũ. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp chưa có thói quen thuê chuyên gia tư vấn quản trị, thuê những người quản lý có tài năng nên đã phần nào làm giảm sức sáng tạo, tính tư duy và khách quan trong hoạt động điều hành doanh nghiệp nhất là đối với các hoạt động quản trị cơ bản như quản trị chiến lược, quản trị tài chính và quản trị nhân sự.
Hoạt động quản trị còn nhiều hạn chế một phần là do các doanh nghiệp trước đây nhận được quá nhiều sự hỗ trợ từ phía Nhà nước nên sau cổ phần hóa, việc thay đổi các chức danh lãnh đạo, xóa bỏ các đặc quyền về mặt pháp lý và tài chính cũng khiến năng lực quản trị của doanh nghiệp giảm sút. Cụ thể, do không còn nằm trong khu vực kinh tế Nhà nước nữa, các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc vay vốn để đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh do vấp phải sự lo ngại từ các ngân hàng Thương mại. Nhà nước không thể đứng ra bảo lãnh nợ cho các doanh nghiệp này được nữa cũng như khi các doanh nghiệp này gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, rất khó
để nhận được các gói cứu trợ cũng như các biện pháp bổ sung vốn từ Nhà nước. Do xuất phát điểm là thành phần kinh tế Nhà nước nên tính chủ động, sáng tạo và hiệu quả làm việc của một số doanh nghiệp chưa cao dẫn đến khó cạnh tranh với các doanh nghiệp cổ phần hóa khác mà nền tảng là các doanh nghiệp tư nhân. Do vậy, nhiều doanh nghiệp đang phải vật lộn trong cuộc cạnh tranh khốc liệt hiện nay.
Vẫn tồn tại các vấn đề khó khăn cần giải quyết như lao động dôi dư, lao động giỏi nhảy việc, lao động lâu năm làm việc còn kém hiệu quả. Nguyên nhân của vấn đề này là do chính sách tiền lương và khen thưởng vẫn còn hạn chế, chưa tạo ra sự kích thích và hấp dẫn đối với người lao động, chưa chặt chẽ sử dụng yếu tố năng lực, hiệu quả công việc thực tế của người lao động.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như:
- Nhận thức chưa đúng, thậm chí sai lệch về quản trị doanh nghiệp, coi cải thiện quản trị doanh nghiệp là cải thiện quản lý điều hành sản xuất kinh doanh như cải thiện về quản lý tài chính, nhân sự, tiền lương, sản xuất thương mại,... Trong khi đó, cải thiện quản trị doanh nghiệp là áp dụng các nguyên tắc quản trị doanh nghiệp hiện đại theo thông lệ kinh tế thị trường. Ví dụ theo quy tắc của OECD đó là tạo điều kiện để cổ đông thực hiện quyền cổ đông và bảo vệ quyền của cổ đông; đối xử bình đẳng với mọi cổ đông, trong đó có cổ đông thiểu số; các bên liên quan được tiếp cận các thông tin phù hợp, đầy đủ, tin cậy, kịp thời và thường xuyên, tăng cường minh bạch hóa và công bố thông tin quan trọng của doanh nghiệp, tăng cường trách nhiệm và tính giải trình của Hội đồng quản trị, đảm bảo để Hội đồng quản trị hoạt động vì lợi ích cao nhất của doanh nghiệp và của cổ đông.
Cách sử dụng quyền của cơ quan quản lý nhà nước đối với phần vốn của mình tại doanh nghiệp không đúng với bản chất của người đại diện phần vốn góp. Tư duy cũ về quản lý hành chính đối với phần vốn nhà nước vẫn chưa thoát ra khi tại doanh nghiệp nhà nước, nhà nước vẫn nắm giữ cổ phần chi phối. Người đại diện phần vốn nhà nước thường là các cơ quan hành chính nên họ có xu hướng áp dụng biện pháp quản lý hành chính vào doanh nghiệp mà họ quản lý. Điều đó ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì tư duy quản lý hành chính khác biệt với quy luật kinh tế thị trường.
- Nhà nước chưa quan tâm đúng mức đến các doanh nghiệp sau cổ phần hóa và quản trị doanh nghiệp của các doanh nghiệp này. Nhà nước chỉ tập trung vào doanh nghiệp 100% vốn nhà nước và thông qua giải pháp cổ phần hóa. Có rất nhiều văn bản được ban hành để thực hiện cổ phần hóa. Ngược lại, có rất ít văn bản hướng dẫn và chỉ đạo triển khai thực hiện nhằm cải thiện quản trị doanh nghiệp tại các doanh nghiệp có cổ phần chi phối hay kiểm soát của nhà nước ở giai đoạn sau cổ phần hóa. Nhiệm vụ đổi mới quản trị doanh nghiệp theo thông lệ kinh tế thị trường đã trở thành vấn đề cấp thiết sau khi Việt Nam gia nhập WTO năm 2007. Tuy nhiên, không có việc ban hành các văn bản hướng dẫn và việc triển khai thực hiện cũng rất chậm.
- Các biện pháp tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước còn thiên về khu vực doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước, chưa chú trọng các biện pháp cải cách các doanh nghiệp sau cổ phần hóa, nhất là các doanh nghiệp nhà nước còn nắm giữ cổ phần chi phối. Các bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các cấp và các cơ quan đổi mới doanh nghiệp nhà nước mới chỉ quan tâm đến kế hoạch sắp xếp, cổ phần hóa, giao, bán, khoán, cho thuê mà chưa quan tâm đến quản trị doanh nghiệp sau cổ phần hóa, quản lý phần vốn nhà nước đặc biệt là doanh nghiệp có cổ phần chi phối của nhà nước.
Thứ tư, thiếu cổ đông chiến lược
Khi tiến hành cổ phần hóa, việc tìm kiếm cổ đông chiến lược là một bước cần thiết. Đó là những nhà đầu tư có khả năng khỏa lấp một số tồn tại của doanh nghiệp nhà nước trước cổ phần hóa như yếu kém năng lực quản trị, điều hành hoặc đem lại những đột phá cho doanh nghiệp về công nghệ, thị trường, ... Doanh nghiệp thiếu cổ đông chiến lược do:
- Doanh nghiệp cổ phần hóa theo cơ chế nội bộ, cổ phần phân tán, thiếu tập trung, thiếu cổ đông lớn. Tình trạng này xảy ra ở giai đoạn đầu cổ phần hóa với những doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Đến nay, hình thức cổ phần hóa này đã dần được khắc phục.
- Nhà nước giữ cổ phần chi phối nên sự chi phối, quyền lực và đặc điểm chi phối của cổ đông nhà nước đã ngăn cản sự tham gia của cổ đông chiến lược. Khi nhà đầu tư nhận thấy họ không có vị trí, không có tiếng nói trong doanh nghiệp họ đầu tư thì họ khó có thể tham gia để chia sẻ ý tưởng, phương pháp quản trị, hoạt động đầu