Những Thuận Lợi Và Khó Khăn Trong Quá Trình Cổ Phần Hoá Các Doanh Nghiệp Nhà Nước Ở Việt Nam Hiện Nay

1. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay

CPH DNNN ở Việt Nam được bắt đầu từ năm 1992. Hơn 15 năm qua, trong bối cảnh nền kinh tế đang chuyển dần sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và quốc tế, chương trình CPH đã có những thành tựu bước đầu. Tính từ năm 1992 đến hết năm 2006, cả nước đã CPH được 3.200 DNNN. Nhìn chung, DNNN đã giảm mạnh về số lượng. Cơ cấu DNNN đã bắt đầu chuyển đổi theo hướng chỉ nắm giữ những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đối với các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu. Đa số các doanh nghiệp sau khi CPH đều có tình hình tài chính tốt hơn so với trước đó. Các chỉ tiêu về doanh thu, năng suất lao động, tiền lương và đầu tư tài sản cố định đều tăng đáng kể [36].

Mặc dù đã đạt được một số tiến bộ nhất định như vậy song tiến trình CPH DNNN vẫn còn rất chậm trễ. Vấn đề đặt ra là làm sao để có thể đẩy mạnh vấn đề này trong thời gian tới? Để trả lời câu hỏi này trước hết chúng ta cần xem xét một số mặt thuận lợi và khó khăn đang đặt ra hiện nay.


1.1. Những thuận lợi

Công tác CPH DNNN ở nước ta diễn ra khá thuận lợi do:

Thứ nhất, Đảng và Nhà nước ta nhận thức được tầm quan trọng của CPH nên đã đề ra và ban hành nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn và kịp thời nhằm hiệu quả hoá công tác CPH DNNN. Trong đó, cần phải khẳng định tính đúng đắn của Nghị quyết Trung ương 3 khoá IX. Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 9 khóa IX một lần nữa khẳng định tính nhất quán của Đảng ta trong chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần; kiên quyết đẩy nhanh việc sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả DNNN, đã đề ra một số chủ trương giải pháp mới. Và sau khi có Nghị quyết Trung ương 9 khoá IX, sự thống nhất trong tư

tưởng, nhận thức của cán bộ, Đảng viên, công nhân viên và nhân dân lao động cao hơn trước. Đây là thuận lợi rất cơ bản trong thời gian tới. Ngoài ra, những kết quả đạt được của các doanh nghiệp sau khi CPH trong thời gian qua, cùng với hiệu quả trong việc thực thi Luật Doanh nghiệp cho thấy sự đa dạng hoá chủ sở hữu trong nền kinh tế, phát triển kinh tế nhiều thành phần đang là động lực thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển mạnh mẽ và cải thiện năng lực cạnh tranh, chủ động hội nhập thành công kinh tế quốc tế.

Thứ hai, tình hình Chính trị trong nước và quốc tế nhìn chung ổn định, an ninh và trật tự-an toàn xã hội được đảm bảo, tạo điều kiện tốt để tiến hành CPH DNNN.

Thứ ba, môi trường pháp lý đã được xác lập về cơ bản, đặt tất cả các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước trong khuôn khổ pháp luật. Nhiều Bộ Luật, Pháp lệnh và các văn bản dưới Luật lần lượt được ban hành như: Luật DNNN năm 1995, Luật DNNN năm 1999, Luật đầu tư nước ngoài,... đã tạo ra một môi trường pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất-kinh doanh.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 107 trang tài liệu này.

Thứ tư, tình hình kinh tế-tài chính của đất nước có nhiều biến chuyển tích cực. Giá cả hàng hoá trên thị trường được duy trì ở trạng thái tương đối ổn định, lạm phát được kiềm chế ở mức độ thích hợp, đất nước về cơ bản đã thoát khỏi đói nghèo và khủng hoảng.

1.2. Những khó khăn

Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 8

Các doanh nghiệp quy mô lớn bán đấu giá và niêm yết trên thị trường chứng khoán đã cung cấp cho thị trường hàng hoá có chất lượng, tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của thị trường vốn, đồng thời tăng cường sự kiểm soát của xã hội đối với hoạt động doanh nghiệp. Tuy nhiên, những khó khăn của công tác CPH DNNN là:

Khó khăn lớn nhất thuộc về vấn đề nhận thức tư tưởng, vấn đề hậu CPH chưa được quan tâm đúng mức, sự hiểu biết pháp luật về Công ty Cổ phần

còn hạn chế. Các nhà quản lý lo ngại sự "chệch hướng xã hội chủ nghĩa", nếu thúc đẩy nhanh quá trình CPH sẽ dẫn đến thu hẹp phạm vi của các DNNN, làm kinh tế Nhà nước bị suy yếu đi. Người lao động trong DNNN chưa hiểu rõ thực chất và nội dung quá trình CPH, e ngại sự xáo trộn có thể xảy ra khi CPH DNNN. Cán bộ lãnh đạo DNNN e ngại mất quyền và lợi liên quan đến cương vị nắm giữ, muốn tranh thủ sự bảo hộ và bao cấp của Nhà nước. Cán bộ cơ quan quản lý cấp trên e ngại mất đi "quyền lực" với DNNN và các lợi ích cá nhân cục bộ gắn với DNNN "trực thuộc". Chính vì vậy, trong thực tế đã xảy ra hiện tượng "chạy trốn" CPH bằng nhiều cách khác nhau.

Thứ hai là những vướng mắc về cơ chế chính sách. Mặc dù các Nghị định, cơ chế, chính sách của Chính phủ đưa ra trong thời gian từ năm 1992 đến nay về vấn đề CPH đã được hoàn thiện, bổ sung theo hướng tạo ra những điều kiện rõ ràng và thông thoáng hơn cho các doanh nghiệp tiến hành CPH; song, việc thực hiện trong thực tế vẫn còn những vướng mắc chưa hoàn toàn được tháo gỡ. Hơn nữa, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và lợi ích của người được cử làm đại diện chủ sở hữu phần vốn Nhà nước tại DNNN CPH chưa được quy định đầy đủ nên các hoạt động diễn ra còn lúng túng.

Trong khi các cơ chế tài chính cho việc chuyển đổi DNNN sang Công ty Cổ phần còn thiếu đồng bộ, nhiều điểm không phù hợp, chậm được sửa đổi bổ sung thì bản thân tài chính trong DNNN khi thực hiện CPH phần lớn còn thiếu lành mạnh, rõ ràng, công nợ nhiều Công ty không đối chiếu được, lỗ lãi không rõ ràng, không xác định được nguyên nhân.

Một loạt những vướng mắc mà sau khi DNNN chuyển đổi sang Cổ phần gặp phải như: vay vốn ngân hàng, chính sách cho cán bộ, môi trường kinh doanh chưa bình đẳng,... làm cho Công ty Cổ phần bị phân biệt đối xử. Tình trạng này chậm được bổ sung sửa đổi đã làm giảm động lực cho các Công ty Cổ phần phát triển, vừa làm cho các cán bộ công nhân viên của các DNNN thuộc diện CPH lo lắng, thiếu quyết tâm.

Thủ tục, quy tắc CPH còn rườm rà, phức tạp, cứng nhắc, chưa gắn được với cải cách hành chính làm cho các doanh nghiệp, các Tổng công ty, thậm chí các bộ ngành, các tỉnh cũng rơi vào thế bị động. Từ quá trình xây dựng tới thực hiện đề án đều bộc lộ tình trạng chưa đi sát thực tế, thiếu sự kết hợp giữa các ngành và lãnh thổ, không ít nơi thiếu dân chủ bàn bạc với doanh nghiệp và người lao động, nhiều nơi cán bộ công chức còn gây phiền hà cho doanh nghiệp, thiếu thống nhất trong chỉ đạo thực hiện, còn e dè, lảng tránh và có cả hữu khuynh trong xử lý vấn đề.

Hiện nay, ngoài những vướng mắc nêu trên thì khi tiến hành CPH Tổng công ty và các Công ty có quy mô lớn, nhiều khó khăn mới đang đặt ra. Khung pháp lý đang cần được sửa đổi kịp thời. Chẳng hạn, phương pháp CPH không thể áp dụng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa; vấn đề phát hành Cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường chứng khoán; vai trò của cổ đông thiểu số; của Nhà nước đối với Tổng công ty Cổ phần; xác định giá trị quyền sử dụng đất, thương hiệu, thương quyền,....

Nhìn một cách tổng quát thì các DNNN sau khi thực hiện CPH còn bộc lộ một số vấn đề sau:

- Nếu căn cứ vào số liệu về cơ cấu vốn Cổ phần thì thực chất vẫn là CPH khép kín, chưa thu hút được các nhà đầu tư chiến lược, chưa thay đổi cơ bản được phương thức quản lý doanh nghiệp. Các mục tiêu CPH chưc được thực hiện đầy đủ. Nhiều đánh giá cho rằng, thực chất quá trình CPH vẫn nặng nề giải quyết chính sách, xử lý lao động, xử lý tài chính doanh nghiệp.

- Vốn Nhà nước được bán cho người lao động và cổ đông ngoài doanh nghiệp mới chỉ chiếm 8,2%, chủ yếu bằng hình thức bán bớt vốn Nhà nước và CPH các Công ty nhỏ, làm ăn kém hiệu quả. Nhìn tổng thể quá trình đổi mới, sắp xếp, nâng cao hiệu quả của DNNN thì tính hấp dẫn của giải pháp CPH chưa cao, chưa được thay đổi về chất đối với Công ty Cổ phần mới được thành lập từ các DNNN trước đây [35].

- Trong cơ cấu Hội đồng quản trị, nhiều Công ty Cổ phần thuộc các tỉnh, người đại diện phần vốn Nhà nước lại là cán bộ, công chức Nhà nước. Trong khi đó, phần đông những cá nhân này có sự am hiểu về doanh nghiệp, trình độ quản trị kinh doanh trong cơ chế thị trường chưa được cập nhật nên tính mạo hiểm thấp, chủ yếu là lo "canh giữ" phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Đây thực chất là lực cản lớn trong việc phát huy tính năng động, sáng tạo, tìm giải pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả sản xuất-kinh doanh của các doanh nghiệp CPH.

- Một số khâu trong quá trình CPH dễ phát sinh tiêu cực, dễ bị lợi dụng như: đất đai, định giá tài sản doanh nghiệp, xoá nợ, lỗ, tiền chính sách của người lao động, bán Cổ phiếu ra ngoài doanh nghiệp,... đang để xảy ra quá nhiều sơ hở làm cho cán bộ, công nhân viên và nhân dân thiếu lòng tin, hoài nghi dẫn đến thiếu an tâm. Chưa kể nhiều nơi có biểu hiện ở cả hai thái cực: chính quyền vẫn tiếp tục can thiệp quá sâu vào hoạt động của doanh nghiệp sau CPH; có nơi lại buông lỏng quản lý Nhà nước gây tâm lý không an tâm của người lao động.

Điều đáng quan tâm là những vấn đề trên không phải chỉ mới xuất hiện mà đã tồn tại từ nhiều năm trước đây. Sự chậm trễ trong việc giải quyết những vấn đề đó đã gây nên ảnh hưởng dây chuyền trong việc làm chậm trễ quá trình đổi mới và phát triển DNNN nói chung và nhiệm vụ CPH DNNN nói riêng. Điều này đòi hỏi chúng ta phải có những chủ trương, giải pháp để đẩy nhanh tiến trình CPH trong thời gian tới.

2. Những thành công đạt được

CPH DNNN là một chủ trương lớn của Đảng, một nội dung cơ bản và quan trọng nhất của tiến trình đổi mới hệ thống DNNN. Hơn 10 năm qua, kể từ năm 1992 đến nay, CPH DNNN đã đem lại những kết quả rõ rệt. Cụ thể là:

- Về vấn đề cơ cấu lại DNNN [29]:

Việc hoàn thành CPH 3.060 DNNN không chỉ đơn thuần là giảm được

số lượng DNNN mà còn để DNNN có được bước cơ cấu lại quan trọng. Từ chỗ DNNN rất phân tán, dàn trải trong tất cả các ngành, các lĩnh vực, đã tập trung vào hơn 39 ngành, lĩnh vực then chốt của ngành kinh tế, trong đó nhiều ngành, lĩnh vực, DNNN cần chi phối để Nhà nước làm công cụ điều tiết vĩ mô.

Quy mô vốn của DNNN sau CPH cũng được tăng lên đáng kể. Vốn bình quân của một Công ty Cổ phần khoảng 24 tỷ đồng (năm 2001) đến năm 2004 đã tăng lên đến 63,6 tỷ đồng. Tỷ trọng các doanh nghiệp có vốn Nhà nước dưới 5 tỷ đồng giảm đáng kể và đến nay hầu như không còn Công ty Cổ phần có vốn Nhà nước dưới 1 tỷ đồng.

Tài chính doanh nghiệp được lành mạnh hoá hơn một bước thông qua việc cơ cấu lại các khoản nợ; xử lý tài sản là vật tư, hàng hoá ứ đọng, tồn kho lâu ngày, kém hoặc mất phẩm chất, máy móc thiết bị không dùng hạch toán vào chi phí hoạt động kinh doanh, giảm vốn Nhà nước hoặc bán cho Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp.

Lao động của Công ty Cổ phần được cơ cấu lại một bước. Tính đến 31/12/2004 đã có 654 doanh nghiệp được duyệt kinh phí giải quyết cho 27.674 lao động dôi dư với số tiền trợ cấp là 812,113 tỷ đồng, bình quân mỗi người được 30 triệu đồng.

- Về việc huy động vốn xã hội đầu tư vào phát triển sản xuất kinh doanh [30]:

Trong quá trình CPH DNNN, vốn Nhà nước tại doanh nghiệp đã được đánh giá lại khách quan hơn, tiếp cận hơn với kinh tế thị trường. Mặt khác đã huy động được 12.411 tỷ đồng của các cá nhân, tổ chức ngoài xã hội vào doanh nghiệp để kinh doanh, đầu tư phát triển sản xuất. Đồng thời, Nhà nước cũng thu lại được 10.169 tỷ đồng để đầu tư vào các DNNN và sử dụng vào mục đích khác khuyến khích DNNN phát triển. Phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp CPH không những không bị giảm đi mà còn được bảo toàn và

phát triển nhờ hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp CPH ngày càng tăng. Ở một số doanh nghiệp, tỷ trọng vốn Nhà nước giảm là do Nhà nước bán phần vốn Nhà nước trong Công ty Cổ phần hoặc Nhà nước không bổ sung thêm tiền để duy trì tỷ lệ vốn Nhà nước theo phương án CPH ban đầu khi Công ty Cổ phần phát hành thêm Cổ phiếu để tăng vốn điều lệ cho Công ty.

Trong quá trình hoạt động, các Công ty Cổ phần đã phát hành các loại Cổ phiếu và trái phiếu ra công chúng để huy động vốn. Sự chuyển nhượng các loại Cổ phiếu và trái phiếu này trên thị trường chứng khoán đã tạo nên sự phân bổ linh hoạt các nguồn vốn xã hội. Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư thêm máy móc kỹ thuật hiện đại, đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, kinh doanh đa ngành, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước cũng như ngoài nước.

CPH thúc đẩy quá trình ra đời, hình thành và phát triển thị trường chứng khoán. Đến cuối năm 2004, đã có 26 Công ty Cổ phần hình thành từ CPH DNNN được niêm yết, mặc dù số lượng còn ít nhưng đây mới chỉ là kết quả ban đầu. Sự thành công và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam phụ thuộc vào quá trình CPH DNNN. CPH đang ngày càng tạo ra nhiều hàng hoá đủ tiêu chuẩn và chất lượng cho hoạt động của thị trường chứng khoán. Ngược lại, thị trường chứng khoán được phát triển lại có tác động đẩy nhanh tiến độ và quy mô CPH.

- Về cơ chế quản lý của Công ty sau CPH [13]:

Việc chuyển từ DNNN thành Công ty Cổ phần đã mang lại cho Công ty cơ chế quản lý năng động, có hiệu quả, thích nghi với nền kinh tế thị trường. Nhờ CPH đã xác định rõ người chủ đích thực của doanh nghiệp-Công ty Cổ phần. Đó là các cổ đông, bao gồm Nhà nước, lao động-cổ đông trong doanh nghiệp và các cổ đông ngoài doanh nghiệp. Doanh nghiệp hoạt động hoàn toàn theo cơ chế thị trường, tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện về hoạt

động sản xuất kinh doanh theo pháp luật, hạch toán kinh tế thật sự.

Sau CPH, doanh nghiệp được tổ chức quản lý và hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Theo cơ cấu có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Ban giám đốc Công ty. Có sự phân định rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm của chủ sở hữu và người sử dụng tài sản của Công ty trong kinh doanh. Mô hình tổ chức quản lý mới đã tạo thêm động lực và tính năng động trong sản xuất kinh doanh, đồng thời đã loại bỏ hoặc hạn chế về cơ bản những hiện tượng tiêu cực trong các hoạt động kinh doanh và quản lý. Công ty được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, đặc biệt là trong đầu tư phát triển, phân phối lợi nhuận, sắp xếp tổ chức và bổ nhiệm cán bộ. Thực tế sau CPH, các Công ty đã và đang thực hiện nhiều biện pháp tiết kiệm trong kinh doanh và quản lý, đem lại hiệu quả rõ rệt.

Các chi phí gián tiếp, quản lý đã giảm được khoảng 25%, cá biệt có Công ty giảm 50% so với trước CPH. Nhiều Công ty Cổ phần đã tiến hành rà soát lại và xây dựng mới các nội quy hoạt động như: quy chế tài chính, quy chế lao động, tuyển dụng,.... Qua đó, CPH cũng góp phần đào tạo, rèn luyện, dần hình thành đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, quản lý doanh nghiệp thích nghi với cơ chế thị trường.

- Về vai trò của người lao động trong doanh nghiệp:

Cổ phần đã tạo điều kiện pháp lý và vật chất để người lao động nâng cao vai trò làm chủ của doanh nghiệp. Chính sách CPH cho phép người lao động đang làm việc trong DNNN khi chuyển sang Công ty Cổ phần trở thành cổ đông. Người lao động-cổ đông là chủ thực sự phần vốn góp của mình, có quyền tham gia quản lý doanh nghiệp một cách có hiệu quả bằng việc dự Đại hội cổ đông để thông qua điều lệ Công ty, bầu các thành viên Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát, biểu quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc thẩm quyền Đại hội đồng cổ đông như: chiến lược kinh doanh, kế hoạch phát triển dài hạn và hàng năm, tăng giảm vốn điều lệ, đầu tư

Xem tất cả 107 trang.

Ngày đăng: 30/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí