Tính Tất Yếu Của Quá Trình Cổ Phần Hoá Các Doanh Nghiệp Nhà Nước Ở Việt Nam

II. Một số vấn đề về Cổ phần hoá‌

1. Khái niệm, đặc trưng của Cổ phần hoá

1.1. Khái niệm Cổ phần hoá

CPH theo nghĩa rộng là quá trình chuyển một doanh nghiệp từ các hình thức tổ chức kinh doanh khác sang hình thái Công ty Cổ phần.

Còn khái niệm CPH thông thường ở nước ta hiện nay được dùng để chỉ quá trình chuyển một số DNNN thành Công ty Cổ phần.

Như vậy, về hình thức, CPH tức là Nhà nước bán một phần hoặc toàn bộ giá trị Cổ phần của mình trong doanh nghiệp cho các đối tượng, tổ chức hoặc tư nhân trong và ngoài nước, hay cán bộ quản lý và công nhân viên chức của doanh nghiệp bằng đấu giá công khai hoặc thông qua thị trường chứng khoán để hình thành các Công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc Công ty Cổ phần. Về thực chất, CPH là phương thức thực hiện xã hội hoá sở hữu, chuyển hình thức kinh doanh một chủ với sở hữu Nhà nước duy nhất trong doanh nghiệp thành Công ty Cổ phần với nhiều chủ sở hữu nhằm tạo ra một doanh nghiệp hiện đại, thích ứng với yêu cầu của kinh doanh hiện đại trong nền kinh tế thị trường hiện đại.

Ở nước ta hiện nay, CPH DNNN không phải là tư nhân hoá nền kinh tế mà là quá trình giảm bớt sở hữu Nhà nước trong các DNNN và đa dạng hoá sở hữu. Nó tạo cơ sở cho việc đổi mới các quan hệ tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn nhằm hiện đại hoá nền kinh tế, tạo động lực phát triển trong doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất-kinh doanh. CPH DNNN không có nghĩa là làm suy yếu khu vực kinh tế Nhà nước mà là một trong các giải pháp quan trọng để tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong sản xuất-kinh doanh của các DNNN hiện nay nhằm phát huy vai trò chủ đạo thực sự của chúng trong nền kinh tế thị trường [3].

Theo Nghị quyết Trung ương 3, CPH DNNN là biến loại hình doanh nghiệp vốn chỉ có một chủ sở hữu là Nhà nước thành loại hình doanh nghiệp

có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động và tư nhân tham gia [3].

Như vậy, trong doanh nghiệp CPH, có Cổ phần của Nhà nước (Cổ phần chi phối, Cổ phần đặc biệt hoặc Cổ phần ở mức thấp) đồng thời có Cổ phần của tư nhân và Cổ phần của kinh tế tập thể.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 107 trang tài liệu này.

1.2. Đặc trưng của Cổ phần hoá

Để có được những giải pháp cho những năm tới, ngoài việc nắm bắt thực trạng của quá trình này, việc hệ thống được những đặc trưng, sau đó phân tích, đánh giá thực trạng tình hình CPH trong giai đoạn vừa qua và đưa ra các giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN là điều cần thiết. Theo nhiều chuyên gia, có thể nêu 5 đặc trưng căn bản của CPH tại Việt Nam [22]:

Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 4

Thứ nhất: tốc độ chậm.

Những năm đầu thử nghiệm, CPH diễn ra chậm chạp do chưa tập hợp, thống nhất được các quan điểm về mục đích, lĩnh vực, quy mô, thứ tự tiến hành, định giá doanh nghiệp,.... Vì vậy, sau 5 năm thực hiện chuyển đổi, chỉ có 25 doanh nghiệp trở thành Công ty Cổ phần trong giai đoạn thí điểm này. Tiếp đến là giai đoạn mở rộng, rồi giai đoạn chủ động, tính đến tháng 12/1998 số doanh nghiệp được chuyển đổi cũng chỉ đạt 116 đơn vị. Những năm kế tiếp, kết quả đã được cải thiện nhưng vẫn không hoàn thành được mục tiêu đề ra: năm 1999 CPH 249 doanh nghiệp, năm 2000 là 212 doanh nghiệp, năm 2002 là 258 đơn vị, năm 2003 là 535 đơn vị, đưa tổng số doanh nghiệp CPH trong 12 năm lên 1.587 đơn vị. Như vậy, kế hoạch đề ra đòi hỏi phải có những nỗ lực mới và những biện pháp mới.

Thứ hai: quy mô nhỏ, vốn nhỏ.

Hầu hết các doanh nghiệp được CPH đều là doanh nghiệp nhỏ, vốn nhỏ. Các doanh nghiệp hầu hết có quy mô nhỏ (chiếm 84% tổng số doanh nghiệp CPH). Điều này không phù hợp với loại hình Công ty Cổ phần vốn dĩ chỉ phát huy được hiệu quả khi doanh nghiệp có quy mô lớn.

Thứ ba: mức độ CPH không cao.

Số doanh nghiệp có Cổ phần Nhà nước chi phối theo định hướng, theo quy định chiếm tới hơn một nửa. Như vậy, mục tiêu nâng cao hiệu quả DNNN khó có thể thực hiện khi số lượng DNNN còn quá lớn và vốn ngân sách vẫn tiếp tục bị dàn trải cho các doanh nghiệp quy mô nhỏ, vốn nhỏ.

Thứ tư: phương pháp định giá doanh nghiệp còn mang nặng tính chủ quan, không mang tính thị trường.

Các quy định về việc định giá doanh nghiệp còn nhiều vấn đề cần bàn, đặc biệt là cách xác định giá trị đất đai. Phương pháp xác định truyền thống thông qua Hội đồng định giá doanh nghiệp bộc lộ nhiều nhược điểm: thiếu tính chính xác, khách quan, mất nhiều thời gian cho việc mời chuyên gia tham gia khảo sát thị trường, phân tích, định giá,... các loại hình tài sản của doanh nghiệp.

Thứ năm: CPH còn mang nặng tính nội bộ.

Toàn bộ tiến trình CPH, từ khâu lập phương án, các bước thực hiện đến thành phần tham gia đều được khép kín trong nội bộ doanh nghiệp. Việc định giá doanh nghiệp, đấu giá Cổ phần, thời điểm bán Cổ phần, danh sách người mua Cổ phần, tỷ lệ Cổ phần ưu đãi, tỷ lệ Cổ phần bán cho người ngoài doanh nghiệp,... đều không được công bố trên phương tiện thông tin đại chúng, không bị áp chế bởi bất kỳ một quy định nào.

Tuy nhiên, CPH DNNN được xem là chủ trương lớn mang tính tất yếu nhằm khắc phục khó khăn, hạn chế sự yếu kém trong quản lý, tăng khả năng huy động vốn và nâng cao hiệu quả sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh và đầy rẫy biến động, CPH DNNN là lối ra phù hợp với kinh tế Nhà nước, là giải pháp có ưu thế trên nhiều mặt.

2. Cơ cấu tổ chức của Công ty Cổ phần

Cơ cấu của Công ty Cổ phần được tổ chức chặt chẽ theo sơ đồ sau:


Theo sơ đồ trên thì trong cơ cấu tổ chức và điều lệ hoạt động của Công ty Cổ phần có: Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Ban giám đốc quản lý Công ty. Mỗi bộ phận đều có những chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau.

3. Phân loại Cổ phần trong Công ty Cổ phần

3.1. Cổ phần phổ thông

Cổ phần phổ thông là loại Cổ phần bắt buộc phải có. Người sở hữu Cổ phần phổ thông gọi là cổ đông phổ thông. Cổ đông phổ thông có thể tham dự để biểu quyết tất cả các vấn đề của Đại hội đồng cổ đông và mỗi cổ đông phổ thông là một phiếu biểu quyết và được ưu tiên mua Cổ phần mới chào bán tương ứng với tỷ lệ Cổ phần phổ thông của từng cổ đông trong Công ty.

3.2. Cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập

Trong vòng 3 năm đầu kể từ khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì cổ đông sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% số Cổ phần phổ thông được quyền chào bán.

Cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập chỉ có thể được chuyển nhượng cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự đồng ý của Đại hội đồng cổ đông. Cổ đông dự định chuyển nhượng Cổ phần thì không được quyền biểu quyết về việc chuyển nhượng đó. Sau thời hạn 3 năm thì các hạn chế trên đối với Cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập sẽ được bãi bỏ.

3.3. Cổ phần ưu đãi biểu quyết

Cổ phần ưu đãi biểu quyết có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với Cổ phần phổ thông, nó không hạn chế mức tối đa và số phiếu biểu quyết cụ thể của một Cổ phần ưu đãi biểu quyết thì do điều lệ của Công ty quy định.

Chỉ có những tổ chức do Chính phủ uỷ quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ Cổ phần ưu đãi biểu quyết.

Cổ phần ưu đãi biểu quyết chỉ có hiệu lực trong 3 năm kể từ ngày đăng ký được biểu quyết. Sau thời hạn 3 năm thì Cổ phần đó trở thành Cổ phần phổ thông bình thường.

3.4. Cổ phần ưu đãi cổ tức

Cổ phần ưu đãi cổ tức là loại Cổ phần được trả cổ tức với mức cao hơn so với mức cổ tức của Cổ phần phổ thông hoặc trả mức ổn định hàng năm. Những người được nhận Cổ phần ưu đãi cổ tức không có quyền biểu quyết.

3.5. Cổ phần ưu đãi hoàn lại

Cổ phần ưu đãi hoàn lại là loại Cổ phần sẽ được Công ty hoàn lại vốn góp bất cứ khi nào theo yêu cầu của người sở hữu hoặc theo các điều kiện được ghi tại Cổ phiếu. Người được hưởng Cổ phần này cũng không có quyền biểu quyết.

III. Tính tất yếu của quá trình Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam

1. Tính tất yếu của quá trình Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam

Trước hết chúng ta phải khẳng định rằng, việc CPH các DNNN là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho các DN kinh doanh hiệu quả hơn, phù hợp với quá trình đổi mới, thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá-hiện đại hoá nền kinh tế đất nước.

Theo số liệu thống kê, đến đầu năm 2008, cả nước còn khoảng 1.900 DNNN với tổng tài sản đạt 747,4 nghìn tỷ đồng. DNNN đang nắm giữ 20%

tổng vốn đầu tư toàn xã hội, gần 50% tổng vốn đầu tư của Nhà nước, 70% tổng vốn vay các ngân hàng nước ngoài và gần 60% tổng lượng vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại Nhà nước,.... Thế nhưng hàng năm, khối DNNN mới chỉ đóng góp 40% thu nhập trong GDP của cả nước [45].

Hiện nay, nước ta vẫn còn trên 600 DNNN hoạt động sản xuất-kinh doanh từ hoà tới lỗ. Tổng số nợ phải thu chiếm 22,2% tổng tài sản "đo đếm được", số nợ đến hạn lên đến 449,2 nghìn tỷ đồng. Hệ số nợ phải trả tính trên vốn Nhà nước của không ít DNNN, đặc biệt là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng công trình giao thông rất cao, lên tới 5 lần, thậm chí có đơn vị lên tới 30-35 lần [33].

Hiện các DNNN vẫn nắm giữ 51,1% tài sản cố định quốc gia nhưng, trên thực tế, các DNNN chỉ sản xuất ra chưa tới 40% GDP (so với 45% của khu vực ngoài quốc doanh và 15% của các doanh nghiệp FDI), đóng góp 30% thu ngân sách về thuế và chỉ tạo ra việc làm cho 3,6% lực lượng lao động [40].

Nhiều DNNN có trình độ công nghệ, máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất lạc hậu từ 10 đến 20 năm so với thế giới, 38% số tài sản cố định chờ thanh lý [21].

Các DNNN đa phần có quy mô nhỏ, vốn ít, vốn Nhà nước bình quân một doanh nghiệp chỉ hơn 18 tỷ đồng, số doanh nghiệp có số vốn dưới 5 tỷ đồng, chiếm hơn 65% còn doanh nghiệp vốn Nhà nước trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 20% nhưng dàn trải ở tất cả các ngành nghề, địa phương. Mà có doanh nghiệp vốn hoạt động thực tế chỉ bằng 80% vốn ghi trên sổ sách, riêng vốn lưu động chỉ còn 50% được huy động vào sản xuất kinh doanh, còn lại là công nợ khó đòi, tài sản vật tư mất mát, kém phẩm chất và lỗ chưa được xử lý [33].

Hiện DNNN đang là đối tượng bị chỉ trích nặng nề trong dư luận xã hội. Có nhiều ý kiến đánh giá đây là lĩnh vực hoạt động kém hiệu quả, kém năng động, gây lãng phí, tiêu cực tiền của Nhà nước nhiều nhất. Không ít DNNN hoạt động trong lĩnh vực độc quyền đã không làm được vai trò đem lại lợi ích

cho nhân dân mà ngược lại, xâm phạm lợi ích, làm giảm lòng tin với nhân dân.

Nguyên nhân của tình trạng trên được tổng hợp lại thành các nguyên nhân chủ yếu sau:

Thứ nhất: Do trình độ nhận thức-kinh tế-xã hội còn hạn chế.

Do ảnh hưởng nặng nề của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ với tư tưởng xoá bỏ nền kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể coi kinh tế quốc doanh dựa trên chế độ sở hữu toàn dân là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Trình độ quản lý vĩ mô nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói riêng còn yếu kếm. Hệ thống pháp luật chính sách chưa hoàn chỉnh chưa phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chưa xác định rõ đại diện chủ sở hữu Nhà nước chậm cải cách chế độ sở hữu trong các DNNN.

Thứ hai: Do sự yếu kém của khu vực kinh tế Nhà nước đặc biệt là các DNNN.

Nhiều tiêu cực trong các Tổng công ty Nhà nước được phát hiện. Tư duy kinh tế thị trường của các DNNN còn hạn chế, thiếu tầm nhìn chiến lược và tư duy khoa học trong việc lập các kế hoạch sản xuất kinh doanh. Hiệu quả hoạt động của DNNN thấp, nhiều doanh nghiệp kinh doanh không có lợi, nợ xấu của các doanh nghiệp còn lớn; khả năng thanh toán nợ còn hạn chế, nguồn vốn tự có thấp; quá trình sắp xếp, CPH chậm. Lực lượng sản xuất yếu kém biểu hiện rõ nhất ở sự thấp kém lạc hậu của kết cấu hạ tầng toàn bộ nền kinh tế cũng như của mỗi doanh nghiệp, chưa có tích luỹ nội bộ chưa có khả năng chi trả số nợ đến hạn và quá hạn. Ngân sách Nhà nước không có khả năng cấp vốn và bao cấp các doanh nghiệp như trước đây. Ngân hàng cho vay cũng phải có những những điều kiện đảm bảo như tài sản thế chấp, khả năng kinh doanh để tính khả năng thu hồi vốn. Các doanh nghiệp ở tình trạng luẩn quẩn, vốn không có nhưng cũng không có cách nào để huy động.

Lao động trong DNNN đông về số lượng nhưng nhiều người không qua đào tạo hoặc đã qua đào tạo nhưng hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề không phù hợp với điều kiện doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường, nên năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa cao. Đội ngũ người quản lý doanh nghiệp, nhất là hàng ngũ Giám đốc phần lớn chưa có đủ trình độ đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường do không được đào tạo và tuyển chọn một cách chặt chẽ và có hệ thống. Người Giám đốc cũng như cán bộ công nhân viên đều chưa có trách nhiệm cao trong việc thúc đẩy hoạt động sản xuất trong doanh nghiệp mình.

Thứ ba: Do xu thế tất yếu và yêu cầu đòi hỏi khách quan của cơ chế thị trường.

Như ta đã biết, trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội luôn luôn tồn tại một quy luật tất yếu khách quan đó là quy luật phủ định của phủ định. Theo quy luật này thì những cái yếu kém lạc hậu nhất định sẽ được thay thế bằng những cái mới tiến bộ hơn. Vì vậy, các DNNN với những hạn chế yếu kém của mình trong cơ chế thị trường đã không phát huy được hiệu quả sản xuất-kinh doanh theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn nhất định cũng sẽ phải được thay thế bằng những hình thức mới có hiệu quả kinh doanh tốt hơn. Hơn nữa, nền kinh tế thị trường với quy luật cạnh tranh gay gắt và quy luật giá trị đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh thì mới có thể tồn tại và phát triển được.

Để khắc phục thực trạng hiệu quả sản xuất thấp kém trong các DNNN và giải quyết yêu cầu đòi hỏi của tất yếu khách quan, hiện nay CPH các DNNN được coi là một giải pháp hiệu quả và mang tính tất yếu nhằm tạo ra môi trường huy động vốn dài hạn và lâu dài cho các doanh nghiệp để đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ và sản phẩm cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế tạo ra sức bật lớn. Sở dĩ CPH là giải pháp hiệu quả và mang tính tất yếu là do công tác CPH trong nền kinh tế thị trường hiện nay có những tiền đề

Xem tất cả 107 trang.

Ngày đăng: 30/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí