Bảng 7. Nhận xét của công nhân về chất lượng dịch vụ mầm non nơi gửi con
Số lượng | Tỷ lệ % | |
Cơ sở vật chất | 215 | 100.00 |
Rất tốt | 16 | 7.44 |
Tốt | 143 | 66.51 |
Bình thường | 48 | 22.33 |
Không tốt | 6 | 2.79 |
Rất tệ | 2 | 0.93 |
Nhân sự ( Giáo viên, người chăm sóc trẻ) | 215 | 100.00 |
Rất tốt | 12 | 5.58 |
Tốt | 132 | 61.40 |
Bình thường | 23 | 10.70 |
Không tốt | 17 | 7.91 |
Rất tệ | 31 | 14.42 |
Tinh thần trách nhiệm | 215 | 100.00 |
Rất tốt | 18 | 8.37 |
Tốt | 166 | 77.21 |
Bình thường | 25 | 11.63 |
Không tốt | 4 | 1.86 |
Rất tệ | 2 | 0.93 |
Trao đổi tình hình của trẻ với phụ huynh | 215 | 100.00 |
Thường xuyên | 19 | 8.84 |
Thỉnh thoảng | 149 | 69.30 |
Rất ít | 42 | 19.53 |
Không bao giờ | 5 | 2.33 |
Có thể bạn quan tâm!
- Các Khái Niệm Có Liên Quan Đến Dịch Vụ Công Tác Xã Hội Về Giáo Dục Mầm Non
- Khái Niệm Dịch Vụ Công Tác Xã Hội Về Giáo Dục Mầm Non
- Độ Tuổi Công Nhân Có Con Từ 36 Đển 72 Tháng Tuổi
- Đề Xuất Mô Hình Công Tác Xã Hội Trong Khu Công Nghiệp, Chế Xuất, Công Ty, Xí Nghiệp
- Giải Pháp Thực Hiện, Nâng Cao Chất Lượng Công Tác Xã Hội Trong Dịch Giáo Dục Nhà Trẻ Mầm Non Tại Khu Công Nghiệp, Công Ty Sản Xuất.
- The Heath Foundation (2016); Early Chilhood Care And Education In Five Asean; Thf Literature Review.
Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.
Nguồn: Tác giả, 10/2018
Quan sát của cha mẹ về nơi gửi con mình, qua tiếp xúc, nhìn và nhận xét trực quan của công nhân trong mẫu nghiên cứu có 3.72 cho rằng cơ sở nơi họ gửi con rất tệ, về đội ngũ nhân sự có 22.32% cho rằng cô giáo, bảo mẫu kỹ năng giao tiếp kém, không biểu lộ sự yêu thương trẻ, về tinh thần trách nhiệm thì có đến 77.21% công nhân cho rằng tốt, theo ý kiến của họ cho là tốt vì khi rước nhìn thấy trẻ tươm tất như buổi sáng đưa vào trường, có 2.79% cho là rất tệ rơi vào nhóm trẻ gia đình. Về trao đổi với phụ huynh chỉ có 8.84% giáo viên, người giữ trẻ trao đổi thường xuyên, 69.30% thì thỉnh thoảng có trao đổi, nhưng chủ yếu là nhắc nhở đóng học phí.
Bảng 8. Quan sát của Cha mẹ khi gửi con vào trường mầm non trong
mẫu nghiên cứu
Số lượng | Tỷ lệ % | |
Mức độ thay đổi của trẻ khi tiếp cận dịch vụ giáo dục mầm non | 215 | 100.00 |
Thay đổi nhiều | 9 | 4.19 |
Thay đổi ít | 149 | 69.30 |
Thay đổi rất ít | 53 | 24.65 |
Bình thường | 4 | 1.86 |
Trẻ hoạt bát lanh lợi hơn | 215 | 100.00 |
Có | 159 | 73.95 |
Không | 56 | 26.05 |
Trẻ ít nói hơn | 215 | 100.00 |
Có | 12 | 5.58 |
Không | 203 | 94.42 |
Sức khỏe của trẻ khi tiếp cận dịch vụ giáo dục mầm non | 215 | 100.00 |
Tốt hơn | 200 | 93.02 |
Tệ hơn | 15 | 6.98 |
Nguồn: Tác giả, 10/2018
Đánh giá của cha mẹ (công nhân trong mẫu nghiên cứu) sức khỏe của trẻ khi tiếp cận dịch vụ giáo dục mầm non tốt hơn khi chưa gửi trẻ chiếm 93.02%, thay đổi nhiều chỉ có 4.19 % trẻ có biểu hiện thay đổi tích cực, tuy nhiên theo nhận xét của cha mẹ trẻ có 73.95% trẻ lanh hơn và phát triển theo độ tuổi. Theo nhu cầu của Maslow, đây là sự thể hiện rõ nhu cầu hòa nhập của trẻ cùng với những trẻ khác trong độ tuổi, để hình thành và phát triền kỹ năng con người trong xã hội theo từng độ tuổi.
Bảng 9. Đánh giá của cha mẹ (Công nhân trong mẫu nghiên cứu) về chất lượng dịch vụ giáo dục mầm non nơi họ gửi con
Số lượng | Tỷ lệ % | |
Bồi dưỡng tiền cho giáo viên đề con có được chăm sóc tốt | 215 | 100.00 |
Phải bồi dưỡng cho giáo viên mầm non | 50 | 23.26 |
Có thì tốt hơn | 91 | 42.33 |
Không có thì cũng không sao vì đó là trách nhiệm | 74 | 34.42 |
Chất lượng dịch vụ giáo dục mầm non | 215 | 100.00 |
Không quan trọng | 1 | 0.47 |
Bình thường | 4 | 1.86 |
Quan trọng | 72 | 33.49 |
Rất quan trọng | 138 | 64.19 |
Nguồn: Tác giả, 10/2018
Theo ý kiến của công nhân trong mẫu nghiên cứu, chất lượng dịch vụ giáo dục mầm non rất quan trọng chiếm 64.19%, điều đó thể hiện qua sự an tâm của phụ huynh khi gửi con có 47.12% an tâm, số còn lại luôn lo lắng vì những lý do như: trẻ có được chăm sóc tốt không, có bị bạo hành không?... Chính những lo lắng đó thể hiện qua đa số ý kiến nên hoặc phải bồi dưỡng thêm cho giáo viên giữ trẻ mặc dù chi phí công nhân gửi con đã chiếm trên 20% tổng thu nhập của vợ và chồng, chỉ có
34.42% cho là đó là trách nhiệm , nhưng khi hỏi về suy nghĩ cảm giác của các bà mẹ ( nữ công nhân) thì có đến 78% luôn nghĩ trong đầu những tình huống xấu nhất khi gửi con “không biết có bị ép, nhồi nhét thức ăn khi cho ăn không” (Nữ 25 tuổi công nhân) hoặc “ không biết hôm nay trẻ tè dầm, có bị cô giáo đánh không?” (Nữ 22 tuổi công nhân). Tuy nhiên khi hỏi và đánh giá về sự hài lòng nơi gửi con, thì có đến 68.8% hài lòng về dịch vụ mầm non, số còn lại thì vẫn chưa hài lòng vì gửi con nhóm trẻ gia đình, trường mầm non tư thục.
Biểu đồ 4: Mức độ hài lòng của công nhân về dịch vụ giáo dục mầm non
Nguồn: Tác giả, 10/2018
Thực tế công tác xã hội tại các khu công nghiệp, công ty, xí nghiệp trong khu vực sản suất hầu như không có, chỉ một vài hoạt động liên quan đến đời sống công nhân quyền lợi được ghép chung vào hoạt động công đoàn, nên công tác xã
hội trong dịch vụ giáo dục mầm non là một trong những hoạt động của công tác xã hội chưa được thể hiện, nên việc những nhà trẻ, nhóm trẻ tự phát, cha mẹ là công nhân thu nhập thấp vẫn luôn là nỗi lo lắng của công nhân trong độ tuổi lao động cũng là độ tuổi sinh sản trong việc làm và chăm sóc con, họ thiếu những thông tin về nhà trẻ tốt, nhà trẻ chất lượng, hoặc nhóm trẻ được công nhận pháp lý thực sự yêu thương trẻ, qua mẫu nghiên cứu thì hầu hết công nhân đều theo xu hướng may rủi họ chỉ biết được chất lượng qua quan sát con, qua cái nhìn nhanh khi gửi và rước con tại các điểm cung cấp giáo dục mầm non.
2.3.3 Nhu cầu dịch vụ công tác xã hội giáo dục mầm non tại Công Ty May Thêu Winning
Nhu cầu cần tìm hiểu những thông tin thiết yếu trong cuộc sống, những dịch vụ xã hội như giáo dục, y tế công nhân tại công ty Winning rất cần để giải quyết những vấn đề cần thiết, nên có đến 93.49% cho rằng rất cần nhân viên công tác xã hội tại công ty để hỗ trợ khi họ gặp khó khăn trong vấn đề tiếp cận thông tin liên quan đến nhu cầu về an sinh, dịch vụ xã hội..
Biểu đồ 5. Nhu cầu nhân viên công tác xã hội tại Công ty
Nguồn: Tác giả, 10/2018
Mong muốn của công nhân tại Công Ty Winning 83,25 % được cung cấp thông tin từ những nhà trẻ trường mầm non để biết được cơ sở vật chất, nguồn lực của trường, nhóm trẻ, có đến 71,16% muốn được tư vấn trước về nguồn lực, chất lượng, thông tin liên quan đến dịch vụ giáo dục mầm non
Bảng 10: Mong muốn có dịch vụ công tác xã hội được hỗ trợ cung cấp thông tin kết nối dịch vụ giáo dục mầm non tại Công Ty Winning
Số lượng | Tỷ lệ % | |
Thông tin về cơ sở vật chất đạt chuẩn, nguồn lực an toàn, có hệ thống camera phụ huynh liên lạc được với trường | 179 | 83.25 |
Cung cấp thông tin về học phí | 63 | 29.4 |
Hỗ trợ về pháp lý đáp ứng các quy định của các trường mầm non công lập | 125 | 58.14 |
Hỗ trợ, liên kết khi công nhân có nhu cầu chuyển trường cho con | 58 | 26.98 |
Hỗ trợ, liên kết với những điểm giữ trẻ ngoài giờ có chất lượng, đạo đức, an toàn cho trẻ | 114 | 53.02 |
Tổ chức các buổi truyền thông, tư vấn về sự phát triển của trẻ theo độ tuổi | 136 | 63.26 |
Tư vấn, tham vấn trước cho các cha mẹ công nhân về các quy định của nhà trẻ mầm non đạt chuẩn | 153 | 71.16 |
Tư vấn, tham vấn cho cha mẹ khi có nhu cầu gửi con vào trường mầm non và các điểm giữ trẻ, khi mẹ qua giai đoạn nghỉ hộ sản | 167 | 77.67 |
Kết nối thông tin các trường, điểm giữ trẻ gần khu vực Công ty với Công Ty | 102 | 47.74 |
Nguồn: Tác giả, 10/2018
2.4. Đánh giá chung về vai trò của dịch vụ công tác xã hội trong giáo dục mầm non tại khu vực nghiên cứu
Những năm đầu đời đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành nhân cách và phát triển năng lực của trẻ, bởi tuy trẻ bẩm sinh đã có khả năng tiếp thu học tập, não bộ đã được lập trình để tiếp nhận các thông tin cảm quan và sử dụng để hình thành hiểu biết và giao tiếp với thế giới, nhưng thiên hướng học tập của trẻ có thể bị hạn chế bởi nhiều yếu tố như thể chất, nhận thức và tình cảm xã hội. Việc được hưởng sự chăm sóc và phát triển tốt từ lứa tuổi trẻ thơ sẽ góp phần tạo nền móng vững chắc cho sự phát triển trong tương lai của trẻ. Giáo dục mầm non sẽ chuẩn bị cho trẻ những kỹ năng như tự lập, sự kiềm chế, khả năng diễn đạt rõ ràng, đồng thời hình thành hứng thú đối với việc đến trường tiểu học, tăng khả năng sẵn sàng để bước vào giai đoạn giáo dục phổ thông. [3]
Ý thức được tác động của những kinh nghiệm đầu đời đối với sự phát triển của trẻ, thời gian qua giáo dục mầm non đã đạt được những kết quả rất khả quan, nhiều chính sách quan trọng đã được ban hành để nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục mầm non, mở rộng tiếp cận đối với giáo dục mầm non chất lượng cao, đặc biệt là tập trung vào trẻ có hoàn cảnh khó khăn, những khu công nghiệp ... Với mục tiêu tăng tỷ lệ nhập học, nâng cao chất lượng giáo dục mầm non thông qua các phương pháp dạy học tốt hơn để đáp ứng các tiêu chuẩn giáo dục cơ bản, nhằm nâng cao khả năng sẵn sàng đi học của trẻ em 5 tuổi.
Tuy nhiên, để trẻ vào lớp 1 cần có 5 lĩnh vực phát triển là kỹ năng ngôn ngữ và nhận thức; kỹ năng giao tiếp và hiểu biết chung; sự trưởng thành tình cảm; năng lực xã hội; sức khỏe và thể chất. Nhưng theo báo cáo đánh giá phát triển trẻ thơ ở Việt Nam năm 2013 do Bộ GD và ĐT, Tổ chức hỗ trợ phát triển giáo dục của Nga, Học viện Offord ở Canada và Ngân hàng Thế giới đồng thực hiện thì hiện nay ở Việt Nam có đến 50% trẻ em được xác định là có nguy cơ bị thiếu hụt hoặc bị thiếu hụt ít nhất một trong năm kỹ năng cần thiết để bắt đầu đi học. Ngoài ra, qua khảo sát cũng cho thấy trẻ được đi học mẫu giáo liên tục từ 3 - 5 tuổi có lợi thế nhiều hơn cho mức độ sẵn sàng đi học của trẻ và có tỷ lệ thiếu hụt thấp hơn trẻ không được đi
học liên tục từ 3 - 5 tuổi, đặc biệt là ở lĩnh vực phát triển kỹ năng giao tiếp và hiểu biết chung. Vì vậy, những trẻ khi bắt đầu đi học nhưng chưa được chuẩn bị thường bị thiệt thòi và thường khó có thể bắt kịp bạn bè . Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên rất quan trọng, đặt nền móng cho sự phát triển về thể chất, nhận thức, tình cảm xã hội và thẩm mỹ cho trẻ em. Những kỹ năng mà trẻ được tiếp thu qua chương trình chăm sóc giáo dục mầm non sẽ là nền tảng cho việc học tập và thành công sau này của trẻ. [7]
Có thể thấy, tăng cường khả năng sẵn sàng đi học cho trẻ mầm non là nhiệm vụ rất quan trọng trong công tác nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục, tạo tiền đề cho trẻ 5 tuổi bước vào lớp một, vào giai đoạn giáo dục phổ thông nhằm góp phần đưa sự nghiệp giáo dục phát triển bền vững. Để thực hiện được điểu này, trong thời gian tới, giáo dục mầm non cần tập trung ưu tiên các nguồn lực xây dựng cơ sở vật chất, nhân lực, chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi để trẻ phát triển toàn diện các lĩnh vực, đặc biệt chú trọng đến phát triển ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm xã hội, kỹ năng giao tiếp và hiểu biết chung. Đồng thời, giáo viên mầm non đóng vai trò rất quan trọng trong việc quyết định việc học tập và phát triển của trẻ nhỏ. Giáo viên được đào tạo tốt hơn sẽ có nhiều tương tác với trẻ tích cực hơn, nhanh nhạy hơn, thích ứng hơn, cung cấp những trải nghiệm về phát triển nhận thức và ngôn ngữ phong phú hơn. Do vậy, giáo viên cần phải có phương pháp sư phạm tốt và các chương trình bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên mầm non đang giảng dạy để giúp họ có những kiến thức mới về sự phát triển của trẻ, cùng những phương pháp dạy học tốt nhất, qua đó cung cấp những kỹ năng cần thiết, góp phần tạo nền móng vững chắc cho sự phát triển trong tương lai của trẻ.
Qua khảo sát thì hầu như các nhà trẻ tư nhân ít quan tâm đến chất lượng giáo viên, thông tin tìm hiểu về cơ sở vật chất, nguồn lực của nhà trẻ -mầm non, nhóm trẻ gia đình, công nhân trong Công Ty Winning hầu như không biết, họ chỉ nhìn và quan sát phía bên ngoài, còn những thông tin chi tiết, biết về chất lượng dịch vụ của cơ sở giữ trẻ, thì có đến 53% công nhân trong mẫu nghiên cứu chỉ nghe và biết theo bạn đồng nghiệp trong Công ty, nên họ chấp nhận những may rủi khi có vấn đề xảy