Thực Lục: Đại Nam Thực Lục; Nhất Thống Chí: Đại Nam Nhất Thống Chí; Liệt Truyện: Đại Nam Liệt Truyện.


Nhìn lại mạch vận động của văn học Việt Nam trung đại trong đó có văn xuôi chữ Hán thế kỉ XVIII - XIX, ta sẽ thấy một mạch nguồn khác đang chảy ngược chiều và có những trang của lịch sử văn học có vẻ như không thuận theo hình dung của các nhà nghiên cứu mà trong đó bộ phận sáng tác bằng chữ Hán chịu ảnh hưởng của Nho giáo vẫn là chủ đạo. Nếu cho rằng “trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX phát triển trên hai bình diện bổ sung cho nhau: 1. Phê phán những thế lực phong kiến chà đạp con người; 2. Đề cao con người, đề cao cuộc sống trần tục” [107, tr.53] thì làn sóng liệt nữ truyện

mang dấu hiệu phản nhân đạo, phản nhân văn rất rõ67. Nhìn từ góc độ nghệ thuật và

hình thức của truyện, rõ ràng liệt nữ truyện trong Đại Nam liệt truyện là một bước “lùi mà tiến” của văn xuôi chữ Hán giai đoạn này. Từ chỗ văn gắn với sử, sang văn tách khỏi sử, rồi lại gần với sử, giống với sử, là quá trình phát triển theo vòng xoắn ốc, lặp lại với một trình độ cao hơn hiểu theo nghĩa rộng, và là một bước lùi với một trình độ cũng “cao” không kém xét trong quá trình tiến hóa của văn chương nghệ thuật. Nếu theo tiêu chuẩn của Trương Thủ Tiết (Trung Quốc) thì liệt nữ truyện ở đây vừa là “liệt truyện” vừa là “biệt truyện”. Nhìn từ sự vận động của “văn học trung đại Việt Nam đã có quá trình hư cấu từ không tự giác đến tự giác, mức độ ngày càng cao, tuy nhiên vẫn nằm trong khuôn khổ quy luật của loại hình trung đại

- vận dụng cốt truyện sẵn hay môtíp có sẵn, rồi tiến hành lắp ghép, biến cải, thêm bớt” [168, tr.151] thì liệt nữ truyện chống lại điều đó, nằm ngoài con đường đó, nó góp phần duy trì truyền thống một cách dai dẳng và bền bỉ. Điều này xuất phát từ truyền thống văn học cổ Trung Quốc mà trong đó “ngay từ lúc khởi nguồn đã gắn bó chặt chẽ với sử học. Sáng tác văn học được tiến hành ngay trong khi trước tác sử học (bao gồm cả việc viết sử một cách vô thức). Hình tượng văn học cũng được biểu hiện thông qua nhân vật lịch sử” [242, tr.7]. Quy phạm (liệt nữ truyện) tước bỏ (hoặc lược bớt) các yếu tố dị biệt, cá biệt để đề cao tính mẫu mực, khuôn thước, tạo



67 Tất nhiên, nếu muốn kết luận cho cẩn thận, ta còn phải bóc tách những truyện nào ca ngợi người phụ nữ tử tiết, thủ tiết một cách mù quáng và truyện nào viết về người phụ nữ thủ tiết, tuẫn tiết vì tình yêu sâu đậm, vì lòng chung thủy vô điều kiện nhưng tư liệu - đã được lọc qua bộ lọc của các sử gia nho thần - không cho phép ta làm điều đó.


thành những khung khổ không dễ vượt qua (có khi là về trình độ, có khi là về quy phạm của chính quyền quân chủ chuyên chế), khiến tính sáng tạo bị gò ép, tạo ra những “thế hệ vàng” tiếp nối một cách ngoan ngoãn như trường hợp Cúc Lữ Hoàng Đạo Thành với Đại Nam hạnh nghĩa liệt nữ truyện. Các quy phạm (trong trường hợp liệt nữ truyện) tự bản thân nó triệt tiêu các phê bình, chỉ có phê bình theo lối bình tán, tán dương về đối tượng của nó dưới dạng các lời bình (dù khá ít ỏi), chứ không có phê bình đối với bản thân quy phạm, có lẽ vì tính tư tưởng của quy phạm đó quá mạnh nên thuộc diện bất khả tư nghị.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 193 trang tài liệu này.

Trong kho sách của Viện Hán Nôm (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam), ngoài các sách viết về (hoặc có liên quan tới) nhân vật liệt nữ trong văn học Việt Nam trung đại được nhiều người biết đến như Việt điện u linh, Truyền kì mạn lục, Truyền kì tân phả, Công dư tiệp kí, Truyện Kiều, Đại Nam liệt truyện, Lan Trì kiến văn lục, Nhị độ mai, Lục Vân Tiên, Phạm Tải - Ngọc Hoa, Tống Trân - Cúc Hoa, Trinh thử, Nam Xương liệt nữ Vũ thị tân truyện, Vân nang tiểu sử… hầu hết các sách đều được viết ra hoặc in dưới triều Nguyễn, đặc biệt là trong khoảng nửa sau thế kỉ XIX. Họ chính là “dàn đồng ca” của thời đại. Nếu mô hình hóa kiểu truyện về liệt nữ sẽ có ba mô hình: Mô hình cơ bản: Họ tên - Quê quán - Tên chồng

- Năm lấy chồng - Lí do và thời điểm chồng mất (hoặc lí do bị bức hiếp) - Nội dung ngôn chí - Những cản trở khi muốn thực hiện ý nguyện - Cách thủ (tuẫn) tiết - Cảm xúc gây ra cho xung quanh - Nhận định của dân làng và triều đình - Năm được nêu khen - Danh hiệu và phần thưởng khi được nêu khen (Nguyễn Thị Kim, Đỗ tiết phụ…). Mô hình mở rộng: Kể đến bà và mẹ của chồng cũng thủ tiết, lập đền thờ cúng, sự thành đạt của con cái. Mô hình tối giản: Thiếu họ (Thị Tính), thiếu tên (Nguyễn thị, Lê thị, Đỗ tiết phụ…), không rõ tên chồng, không nói năm nêu khen, không có nhận định của những người xung quanh... So sánh kiểu truyện hay đúng hơn là các ghi chép về liệt nữ, tiết phụ trong Đại Nam liệt truyện với Đại Nam nhất thống chí Đại Nam thực lục, sẽ thấy có ít nhiều vênh lệch giữa ba loại văn bản này dù rằng chúng đều là văn học chức năng, trong đó những ghi chép về các liệt nữ của Đại Nam liệt truyện là một dạng mở rộng của việc “vào sổ khen thưởng”. Trong

Nhân vật liệt nữ trong văn học Việt Nam trung đại - 17


truyện về Nguyễn Thị Kim, Đại Nam liệt truyện có ghi thêm chi tiết “Thị (…) bảo người nhà rằng việc của tôi đã xong rồi”, còn Đại Nam thực lục thì cất công ghi lại cả lời bàn của Đặng Đức Siêu chứng tỏ triều Nguyễn khá bất ngờ với một số sự kiện mới phát sinh trong những ngày đầu kiến lập. Xét một cách tổng thể, dung lượng của liệt nữ truyện trong Đại Nam liệt truyện Đại Nam nhất thống chí đều lớn hơn Đại Nam thực lục trong đó Đại Nam liệt truyện thường có dung lượng truyện lớn nhất. Có chỗ Đại Nam liệt truyện có vẻ “lên gân” hơn so với Đại Nam nhất thống chí, như trường hợp truyện của Nguyễn Thị Ngữ. Nếu như Thực lục chỉ ghi “trong loạn Tây Sơn (…) thị mới 21 tuổi, giữ mình trong sạch 15 năm” và Nhất thống chí chép rằng “Tư đồ giặc là Vũ Văn Dũng muốn lấy, thị không chịu, Dũng

cũng không cưỡng” thì Liệt truyện68 chép “Tư đồ và thiếu phó của Tây Sơn tranh

nhau muốn lấy, phu nhân thề không đổi tiết”. Những người được Liệt truyện ghi chép khá dài như Phan Thị Trang, Nguyễn Thị Ý, Trần Thị Tuần thì Nhất thống chí ghi khá giống còn Thực lục chỉ ghi vắn tắt, bỏ hẳn các hành vi cụ thể và các phát ngôn ấn tượng của nhân vật, bỏ qua cả thái độ của người xung quanh với nhân vật, như Trần Thị Tuần, cả hai lần phát ngôn đều được Liệt truyện Nhất thống chí ghi lại tường tận. Có thể nói, ghi lại các phát ngôn và hành động ấn tượng của nhân vật cũng như lời bình của xung quanh đối với liệt nữ, tiết phụ là ưu điểm của Liệt truyện. Những trường hợp như Vũ Thị Lựu, Phạm Thị Uyển được Liệt truyện Thực lục ghi lại khá giống nhau với dung lượng lớn hơn Nhất thống chí hay việc Dương Thị Việt được ghi chép trong Nhất thống chí kĩ càng hơn so với Liệt truyện Thực lục là những ví dụ hiếm hoi. Trường hợp Hoàng Thị Trúc (Lạng Sơn) cũng vậy. Cả Liệt truyện, Nhất thống chí Thực lục đều ghi chép giống nhau nhưng Thực lục lại hơn ở chỗ ghi thêm ý kiến của Minh Mạng chứng tỏ sự kiện lúc đó còn nóng hổi và tạo được xúc cảm cho nhà vua và người đương thời. Một điểm khác quan trọng là Đại Nam thực lục ghi chép theo lối biên niên, theo mạch thời gian của lịch sử, còn Đại Nam nhất thống chí ghi chép theo lối “chuyên đề”, ở đó có dáng


68 Thực lục: Đại Nam thực lục; Nhất thống chí: Đại Nam nhất thống chí; Liệt truyện: Đại Nam liệt truyện.


dấp của sử cương mục, đặc biệt là trong Đại Nam liệt truyện, sự xuất hiện của “mục lục” trước các “chân dung” là minh chứng rõ nét nhất. Ở Đại Nam liệt truyện, tác giả không hề có cảm hứng với kĩ thuật tự sự hay tự sự thế nào cho hay, cho hấp dẫn bởi bản thân đối tượng được nhắc đến đã là minh chứng của “mùi đạo cực chưng ngon” rồi. Việc nhiều liệt nữ được “thâm canh” qua cả ba bộ sách một cách y chang đã góp phần thể hiện điều đó. Thừa nhận quan điểm của D.S.Likhachev về tính quy luật trong nghệ thuật69, có thể nói các liệt nữ truyện trong Đại Nam liệt truyện

những đối tượng nhỏ làm nên một hiện tượng lớn để thêm hiểu văn học trung đại Việt Nam giai đoạn này. Trong Chính biên Nhị tập, dung lượng của liệt nữ truyện bị rút ngắn đi phần nào so với liệt nữ truyện trong Chính biên Sơ tập dù rằng số chân dung thể hiện được tăng lên, điều đó chứng tỏ, với liệt nữ truyện, mối quan hệ giữa Văn và Sử ngày càng khăng khít, trong đó Văn ngày càng tiến gần tới đường biên của Sử, mối quan hệ Văn - Sử được phục hưng, dù rằng về bản chất đây cũng là văn học chức năng gắn chặt với sử học. Nếu như trong các triều đại trước, truyện về liệt nữ tồn tại trong các thể loại phi quan phương và ít được ghi lại trong sử thì đến nhà

Nguyễn Liệt nữ truyện 列女傳 đã trở thành một phần của sử chính thống. Ở đây,

liệt truyện đã bổ sung một góc nhìn cho sử biên niên nhưng vẫn không khác mấy so với sử biên niên.

Là sản phẩm sản xuất hàng loạt trên cơ sở một mô hình du nhập từ Trung Quốc, các nhân vật tiết phụ, liệt nữ trong Liệt nữ truyện 列女傳 của Đại Nam

liệt truyện và dòng mạch liệt nữ truyện cuối thế kỉ XVIII - thế kỉ XIX giống nhau đến kì lạ trong ngoại hình, ngôn ngữ, tâm lí, cử chỉ và số phận cũng như danh phận. Sự tồn tại của họ cả trong thực tế và trong ghi chép lẫn sáng tác văn chương là minh chứng hùng hồn cho sự áp chế của đàn ông và cái nhìn đàn ông khi định giá và đánh giá phụ nữ trong xã hội Việt Nam được Nho giáo hóa đến cùng cực “từ thiên tử cho đến thứ dân” thời kì đó. Dẫu nhân vật liệt nữ trong dòng mạch liệt nữ truyện thời đó


69 “Trong nghệ thuật, chỉ qua những hiện tượng lớn chứ không phải qua những hiện tượng nhỏ mới có thể thấy được sự xuất hiện của các quy luật” [103, tr.17].


không còn là “những anh hùng thời đại” của giai đoạn sau nhưng truyện về họ là một chứng tích cho quá trình phát triển đến đỉnh điểm của văn học chức năng cũng như sự hòa trộn giữ Văn với Sử trên tiến trình vận động của văn học Việt Nam trung đại. Khi kiểu nhân cách của họ trở thành quy phạm thì cũng chính là lúc kiểu truyện liệt nữ trở thành khuôn mẫu cho một mô hình tự sự mà ở đó sự thực thâm nhập vào sáng tạo văn chương một cách ồ ạt, xâm nhập đến dồn ứ không cho người viết quyền sáng tạo, và dù thực tại có thấm đẫm mỗi trang văn như thế nào thì truyện vẫn không thể giàu sức sống bởi những thân xác phụ nữ đã bị chối bỏ ngay từ khi hình thành, nếu có, ý thức làm người.

4.2. Sự tái sinh những cốt truyện cũ và tính thời sự, tính duy lí của nhân vật liệt nữ thế kỉ XIX: Trường hợp nhân vật liệt nữ trong Nam Xương liệt nữ Vũ thị tân truyện Vân nang tiểu sử

4.2.1. Sự tái sinh những cốt truyện cũ hay phục sinh những hóa thạch văn chương: Trường hợp Vũ Thị Thiết (“Nam Xương liệt nữ Vũ thị tân truyện”) và Trinh phụ hai chồng (“Vân nang tiểu sử”)

Sang nửa sau thế kỉ XIX, khi quốc biến đã nổ ra (1858), đời sống văn học buộc phải chuyển mình cho phù hợp với điều kiện mới nhưng sức sống của mạch truyện viết về liệt nữ không vì thế mà suy giảm, hơn nữa còn được huy động mạnh mẽ, được nhắc nhớ thường xuyên trong những hình hài mới, cốt truyện mới phục sinh từ những hóa thạch văn chương, những kí ức ngôn từ trong truyền thống văn học trung đại đã kéo dài hàng thế kỉ.

Trong văn học Việt Nam giai đoạn này, việc các đề tài và câu chuyện cũ “tái xuất” giúp nhà nho “gia cố” được vấn đề của liệt nữ truyện chính thống, đồng thời giúp tác giả và người đọc trải nghiệm các vấn đề mới của đạo đức đặt ra. Tuy nhiên, trong dòng chảy đó, những “di chỉ văn chương” thuần Việt không phải đã hoàn toàn độc lập với những sản phẩm ngoại lai. Đáng lưu ý trước hết là nhóm tác phẩm khai thác những câu chuyện cũ trong truyền thống văn học Đông Á mà cụ thể là trong lịch sử văn học Trung Quốc. Nữ phạm diễn nghĩa từ của Tuy Lí vương (1853) là một bản diễn Nôm Liệt nữ truyện của Lưu Hướng đời Hán, Liệt nữ tiệp


lục giải âm của Nguyễn Đắc Vọng kể về 12 người phụ nữ trinh tiết của Trung Quốc, Vịnh sử thi tập của Nguyễn Đức Đạt viết về các bậc danh hiền, liệt nữ, gian thần, nịnh nhân, hiền phi, hãn phụ, yêu cơ… bên Trung Quốc. Sau này, nhà nghiên cứu Bửu Cầm, vốn là cháu gọi Tuy Lí vương bằng cụ, thừa nhận trong Nữ phạm diễn nghĩa từ “tựu trung, cũng có một vài trường hợp quá khích vì quan niệm sai lầm về chữ “trinh” và chữ “hiếu” của cổ nhân” [19, tr.863] như truyện vợ Vương Ngưng chặt đứt cánh tay vì bị người đàn ông khác nắm vào (Ngưng thê nghĩa ấy càng kinh,

- Người lầm dắt cánh nàng đành cắt tay) hay Trương Nhị mổ gan dâng bà nội làm thuốc chữa bệnh... Đặt trong bối cảnh đương thời, cùng với Liệt nữ tiệp lục giải âm của Nguyễn Đắc Vọng hay Nhị thập tứ hiếu diễn âm của Lí Văn Phức (cũng là một tác phẩm diễn Nôm các câu chuyện về lòng hiếu thảo trong lịch sử Trung Quốc với những tấm gương cực đoan không kém như chuyện “Quách Cự chôn con nuôi mẹ”) người đọc sẽ thấy được sự ổn định trong “dãy tượng đài trật tự đến lí tưởng” ấy.

Với dòng mạch khai thác những câu chuyện cũ, những hóa thạch văn chương, những biểu tượng đạo đức vững bền, một bộ phận truyện liệt nữ giai đoạn này đã huy động, hệ thống hóa các nhân vật xuất hiện trong suốt chiều dài lịch sử văn học trung đại Việt Nam. Việc Đại Nam nhất thống chí ghi chép về Mị Ê, Trương tiết phụ, Nguyễn Thị Thuật (Thừa Thiên), Lê Thị Ta (Hà Nội), Nguyễn Thị Niên (Ninh Bình), Phạm Thị Viên (Hải Dương), Khâm đức Hoàng hậu Nguyễn thị, Quý phi Nguyễn thị, Nguyễn Thị Tuần (Bắc Ninh), Lê Thị Liễn, Nguyễn thị (Sơn Tây), hay sự xuất hiện của sách Đại Nam hạnh nghĩa liệt nữ truyện (Hoàng Đạo Thành) đầu thế kỉ XX là nằm trong cuộc tổng duyệt ấy. Bên cạnh đó, những câu chuyện, những cảm xúc phát sinh từ sự hòa trộn giữa các sử liệu Trung Quốc và sử liệu, giai thoại dân gian của Việt Nam như trường hợp Sự tích đá nàng Khương bắt đầu xuất hiện. Câu chuyện về nàng Khương và người chồng chết trong bối cảnh nhà Hồ xây thành Tây Nhai rõ ràng mang dấu ấn ảnh hưởng của câu chuyện về nàng Mạnh Khương thương xót người chồng mang tên Vạn Hỉ Lương chết vì đi xây Vạn lí trường thành thời Tần (Trung Quốc). Câu chuyện được Việt hóa này mang ý nghĩa xã hội (sự bất công, chuyên chế) lớn không kém ý nghĩa đạo đức (trinh tiết, thủy chung) mà nó


mang lại. Phan Thúc Trực có thơ Vịnh Khương nương thạch tích, Nguyễn Xuân Ôn thì viết bài thơ Bình Khương thạch… Trong Thanh Hóa kỉ thắng (được khắc in năm 1904), Vương Duy Trinh (đỗ Cử nhân năm 1870, làm quan Ngự sử, Bố chính, sau thăng đến Tổng đốc Thanh Hóa) đã chép truyện Thành Tây Nhai - Đá nàng Khương kể lại đầu đuôi câu chuyện này. Truyện của Vương Duy Trinh ghi lại khá nhiều thơ đề vịnh di tích (trong đó có thơ của Nguyễn Xuân Ôn) chứng tỏ câu chuyện đã tạo ra sự cộng hưởng khá lớn trong mắt người đương thời. Sự thật, rất có thể đã tồn tại những câu chuyện mang màu sắc bi kịch tương tự phát sinh từ việc huy động nhân công đi xây thành nhà Hồ và dân gian đã chọn một trong số đó để huyền thoại hóa rồi các nhà nho lại mô hình hóa câu chuyện theo một cốt truyện phổ biến ngoại lai (Mạnh Khương - Vạn Hỉ Lương) tạo nên cảm hứng đề vịnh cho biết bao thế hệ nhà nho. Mạch thơ văn đề vịnh đá nàng Khương này cũng có những biến thể như trường hợp Cao Bá Quát đề vịnh Vọng phu thạch. Những tác phẩm này ghi nhận một hiện tượng, đó là nhà nho đã mở rộng phạm vi quan tâm của mình ra ngoài các câu chuyện mang tính chất “người thực việc thực” để lấn sân sang các cốt truyện liệt nữ có màu sắc dân gian mà ở đó, dù dưới góc nhìn dân gian hay góc nhìn bác học, người liệt nữ, liệt phụ, tiết phụ hóa đá (hoặc in dấu thân thể mình vào đá) là một dạng quan niệm: Họ vừa trở nên vĩnh cửu, bất tử vừa bị vô tính hóa, mang các đặc trưng “lạnh”, “trơ” của đá trước các thử thách của tự nhiên và xã hội, của thời gian và đạo đức.

Trong cảm hứng khai thác các câu chuyện dân gian về đề tài liệt nữ, một nhánh của văn học Việt Nam trung đại thế kỉ XIX đi vào tái tạo các câu chuyện đã có trong chính văn học viết các giai đoạn trước mà Nam Xương liệt nữ Vũ thị tân truyện của Nguyễn Hòa Hương là một thể nghiệm đáng lưu ý. Câu chuyện mở đầu bằng cảm hứng quốc gia dân tộc nhưng điều dẫn tác giả tới câu chuyện này là vấn đề “Chữ trinh đâu có lạ đời”. Sự phát triển của Nguyễn Hòa Hương so với Nguyễn Dữ đã được tác giả thể hiện ngay từ tiêu đề của tác phẩm, đó là sự thay đổi từ Nam Xương nữ tử lục thành Nam Xương liệt nữ Vũ thị tân truyện, nhấn mạnh yếu tố trinh liệt của nhân vật này. Tính chất bi kịch được nhấn mạnh hơn so với truyện của


Nguyễn Dữ ở chỗ Nguyễn Hòa Hương nhấn mạnh Trương sinh là người có học (“Công danh hai chữ đợi chờ”) cùng với yếu tố xứng đôi vừa lứa của Vũ thị và Trương sinh (“Người tài tử kẻ khuynh thành”) dù cho đó chỉ là một uyển ngữ văn chương, bên cạnh việc không quên rào đón “Chàng Trương tính cũng nực cười - Sinh ra vẫn vốn con người đa nghi”, miêu tả Vũ Thị Thiết “Tam tòng tứ đức vẹn mười - Chăm bề trung hiếu nết người đoan trang” [73, tr.233 - 235]. Sự tiến bộ của Nguyễn Hòa Hương, nếu như có thể nói như vậy, nằm ở chỗ tác giả nhấn mạnh chi tiết nhân vật nữ chủ động trong quan hệ luyến ái (“Lòng riêng riêng những kính yêu

- Nguyệt hoa hoa nguyệt ngăn điều say sưa”) [73, tr.235], và dù cho hành vi đó không có gì mới so với truyền thống ứng xử của người phụ nữ như trong bài Thời trước của Nguyễn Bính sau này70 nhưng đã phần nào khẳng định ý thức về tự do thân thể của người phụ nữ khi họ về nhà chồng qua con đường gả bán. Với đặc trưng thể loại truyện Nôm, có nhiều dung lượng cho việc phô diễn các tình tiết, lời thoại, nhưng cũng không thiếu chỗ cho việc thể hiện đời sống tâm lí nhân vật, Nam Xương liệt nữ Vũ thị tân truyện đã khai thác khá kĩ tâm trạng của nhân vật, đặc biệt

là Vũ nương trong bối cảnh thân đơn gối chiếc. Ở đây, tác phẩm tuy mang cảm hứng của liệt nữ truyện nhưng lại chịu ảnh hưởng văn học tài tử giai nhân giai đoạn thế kỉ XVIII - nửa trước thế kỉ XIX rất mạnh. Câu chữ của tác phẩm dễ gợi cho người đọc nhớ đến Chinh phụ ngâm khúc, Truyện Kiều, đặc biệt là Chinh phụ ngâm khúc (Để gầy bông thắm để thưa hoa vàng, Nhẹ xem tính mệnh như hình cỏ hoa, Tiễn đưa một chén quan hà, Oán treo ra cửa phòng môn - Sầu lên ngọn ải ai buồn hơn ai, Văn Quân với ả Phan lang - Mặt hoa mái tóc pha sương quá chừng…). Có thể nói, với sự hậu thuẫn về mặt ngôn từ, tứ thơ của Chinh phụ ngâm khúc, truyện của Nguyễn Hòa Hương đã bớt được sự đầu tư trí tuệ và tâm sức trong việc miêu tả tâm trạng người chinh phụ đồng thời qua đó hình tượng Vũ nương trong Nam Xương liệt nữ Vũ thị tân truyện cũng được khai thác mạnh mẽ hơn tâm trạng mà trong đó bao trùm lên là cảm xúc lo sợ trước sự dịch chuyển của thời gian, sự tàn phai của nhan sắc bên cạnh nghĩa vụ nuôi già dạy trẻ. Có lẽ, sự phá cách lớn nhất so


70 “Tôi hằng khuyên sớm khuyên trưa: - “Anh chưa thi đỗ thì chưa động phòng” [95; tr.27]

Xem tất cả 193 trang.

Ngày đăng: 18/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí