Nghiên cứu truyện dân gian Khmer Nam bộ dưới góc nhìn bối cảnh - 20


dụng từ ngữ, lối kể, cách dùng các biện pháp tu từ, … ở người kể chuyện và những phản ứng của người nghe về khía cạnh này. Sự phản ứng của người nghe là một dạng của phê chuẩn cộng đồng. Có thể trả lời các câu hỏi sau như những gợi ý để mở rộng hướng miêu tả: Có phải cách nói hay cách kể là một phần tạo nên ý nghĩa? Bằng cách nào? Câu chuyện vui không? Vì sao? Phần từ ngữ nào? Hay cách chơi chữ hoặc suy nghĩ nào tạo ra tiếng cười, nỗi buồn? Nó đáng tin không? Người trình bày có tạo ra những cử chỉ, điệu bộ, những động tác dư thừa so với văn bản nhưng lại có nhiều cơ sở để tạo ý nghĩa không? Màu sắc, thời gian trong ngày, trong năm có quan trọng không? Tiết mục đó có “ý nghĩa tự nhiên” cho những người thưởng thức không? Nếu có thì cái gì làm cho người ta thấy rằng nó dễ hiểu và rò ràng? Có những cấm kị hay phê chuẩn đi cùng với một tiết mục hay là việc tạo lập, diễn xướng và phân phát của văn bản hay không? …

Trong một bản ghi chép, các phần nêu trên được bố trí thành một bảng như sau: Phần trên cùng dành cho việc thể hiện bối cảnh, chia thành nhiều dòng, mỗi dòng thể hiện một yếu tố trong bối cảnh vừa trình bày ở trên. Phần bối cảnh không ghi rò nhan đề mà chỉ ghi các yếu tố của một bối cảnh. Sau phần bối cảnh, bản ghi chép chia thành hai cột, cột bên trái thể hiện kết cấu, cột bên phải thể hiện văn bản.

Ở đây, cần nói rò hơn về cột bên trái. Dù cột này dùng để ghi kết cấu của văn bản (tức là những đánh giá, cảm nhận của người ghi chép về cấu trúc diễn ngôn kể) nhưng vẫn hàm chứa trong đó một phần các yếu tố của bối cảnh. Đó là những lời dẫn dắt câu chuyện, tường thuật lại sự kiện của người nghiên cứu để người đọc dễ theo dòi. Đó còn là những tình huống tương tác nhỏ giữa những người tham gia để thúc đẩy câu chuyện phát triển hay bế tắt. Do đó, dù ghi tên cột là kết cấu nhưng phải hiểu là bao hàm trong đó cả bối cảnh. Để giúp cho người đọc dễ nhận biết, chúng tôi quy ước: phần bối cảnh


xen vào trong kết cấu sẽ được thể hiện bằng chữ in thường, còn phần suy nghĩ riêng của người điền dã sẽ in nghiêng Có thể mô hình hóa như sau:

Tựa đề/ sự kiện:


Tên người tham gia:

Địa điểm ghi nhận

Ngày tháng ghi nhận:

Thể loại:

Cụ thể hơn về người tham gia:


Tình huống kích thích:


Kết cấu


Văn bản

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 284 trang tài liệu này.

Nghiên cứu truyện dân gian Khmer Nam bộ dưới góc nhìn bối cảnh - 20

Sau đây chúng tôi xin dẫn một bản ghi chép cụ thể theo mô hình nêu

trên.


Tựa đề/ sự kiện:

Chuyện bốn anh tài và hoàng tử Pras Thông

Tên người tham gia:

Thạch Thuôl và 5 vị cao niên, không ghi rò tên (vì

bối cảnh không tiện can thiệp)

Địa điểm ghi nhận

ấp Bưng Triết, xã Liêu Tú, huyện Trần Đề, Sóc

Trăng

Ngày tháng ghi nhận:

12/3/2013, buổi sáng

Thể loại:

Cổ tích thế sự nhưng lại có chức năng giải thích lễ

nghi

Cụ thể hơn về người tham gia:

Ông Thạch Thuôl năm nay 64 tuổi, là nam giới, nghề nghiệp làm ruộng, nguyên phó hiệu trưởng trường tiểu học Liêu Tú, huyện Trần Đề, Sóc Trăng, đã nghỉ hưu. Ông tốt nghiệp Trung học sư phạm và dạy học được 30 năm. Ông Thuôl được xem là trí thức Khmer, tức là người có học vấn phổ thông và có nghề nghiệp là thầy giáo, từng làm công tác quản lí, đã từng đi tu. Trong suy nghĩ và quan niệm của ông vừa có những yếu tố thiên về khoa

học, chính trị, hướng tới cách sống được cho là văn minh (do một số chi tiết


ông vừa kể nhưng cũng vừa phê phán nó không văn minh, cổ hủ, không đúng với chủ trương của nhà nước) vừa có những kết tinh của nền văn hóa Khmer cô truyền (qua việc ông nắm rò những phong tục tập quán rất chặt chẽ).

Những người còn lại là những vị cao niên trong sóc, họ cũng làm ruộng nhưng đã lớn tuổi nên thảnh thơi hơn, sáng có dịp đi gặp những người bạn đồng niên. Họ cũng là người kết tinh văn hóa của xóm làng nhưng do không được học nhiều nên hạn chế trong cách diễn đạt. Họ có khả năng đánh giá những gì ông Thạch Thuôl kể và “tung hứng”, nhắc nhở nếu ông Thuôl quên chi tiết.

Tình huống kích thích:


Trong đợt đi sưu tầm điền dã kéo dài 05 ngày (10/3 đến ngày 15/3/2013), tôi ngụ trong nhà một thầy giáo ở ấp Bưng Triết, xã Liêu Tú, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng. Buổi sáng, khi thanh niên và những người trong độ tuổi đi làm đồng, hay đi làm thuê ra khỏi nhà, các vị cao niên thường ngồi tại quán tạp hóa, có bán cà phê và các loại thức uống. Họ uống nước và nói chuyện thời sự. Tôi cũng tham gia vào cuộc trò chuyện với ông Thuôl và 05 người đàn ông khác. Ông Thuôl giới thiệu tôi với ba người kia, trong đó có nhắc đến việc tôi đang đi sưu tầm truyện dân gian Khmer. Ba vị kia nói ông Thuôl là thầy giáo nên biết nhiều chuyện, yêu cầu ông kể cho tôi và các vị còn lại nghe. Tuy vậy, cả 06 người đều không bắt đầu mà trò chuyện về mùa màng, thóc lúa. Chợt có một vị lớn tuổi, mình vận xà rông – trang phục truyền thống của người Khmer- đi ngang. Cả sáu vị đều chắp tay vái chào, vị cao niên kia cũng chắp tay chào lại. Tôi hỏi: “Ông ấy là ai mà các bác đều phải chào vậy?”. Ông Thạch Thuôl trả lời: ông đó là vị à cha của sóc này, là người biết nhiều lễ nghi, có từng đi tu, được mọi người kính nể nên ai cũng chào. Lúc ấy, cô chủ quán bưng ra một dĩa bánh gừng, một loại bánh của người Khmer trong lễ cưới, mời mọi người ăn. Ông Thuôl hỏi đám cưới của ai? Cô chủ quán trả lời là đám của đứa em ruột. Ông Thuôl quay sang tôi hỏi: thầy ăn bánh gừng chứ có biết sự tích lễ cưới người Khmer

không? Tôi cười và thưa: “Dạ xin bác cứ kể”.



Kết cấu

Văn bản

Ông Thạch Thuôl (TT) nhấp một

- Bốn người không có nhà và nghèo


Kết cấu

Văn bản

ngụm cà phê rồi bắt đầu kể bằng tiếng Việt, đôi khi pha lẫn vài tiếng Khmer

Giọng điệu người kể không hề đổi so với cách nói bình thường, lời kể không tỏ ra thiện chí vì câu cụt, nhưng có lẽ do phải kể bằng tiếng Việt nên mới có hiện tượng đó.

Ở đây các khóa cũng không được sử dụng.

đi học đạo, được ông thầy thấy thương nhận làm đệ tử để dạy. Ông thầy dặn vợ mình chăm sóc bốn đứa thật tốt để nó học hiệu quả

Một ông ngồi đối diện nói: “Dơ! cứu người … hông phải đâu, kêu là giống như bác sĩ vậy đó”. Ông TT nói: à gọi là thầy thuốc có phép cải tử hoàn

sinh.

- Sau khi thành tài, mỗi người có 01 đặc điểm: bắn cung, xem bói, thợ lặn và cứu người chết mà cho nó sống lại

Ông TT vừa kể vừa dùng điệu bộ để diễn tả, lời nói có giọng điệu, nhấn mạnh ở cuối câu

Một vị nói: “Tưng” là sông chứ không phải hồ. Ông TT đồng ý , là sông ăn ra biển.

Thật ra là chim “đại bàng”, do ông không phát âm đúng tiếng Việt. Ba vị còn lại cũng không phản đối.

Cách nói “8 giờ” bị hiện đại hóa.

- Trên đường về bốn người nằm nghỉ dưới gốc cây cạnh một hồ lớn. Bốn người thách nhau xem ai tài giỏi Những người còn lại thách anh biết bói, nói thử chuyện của ngày mai xem có gì. Anh bói lật sách vở ra xem nói là ngày mai đúng 8 giờ có con chim “đại hoàng” bắt một công chúa của nước nào đó bay qua đây.

Ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật trong câu chuyện được bình dân hóa như cách nói hàng ngày của đám thanh niên nơi phum sóc. Cách diễn đạt hoa mĩ hay lời nói gián tiếp của những người có học sẽ hoàn toàn

khác với phong cách dân dã của các

- Hôm sau, đúng 8 giờ sự thật có một chim đại hoàng cắp công chúa bay qua. Nhìn thấy công chúa rất đẹp. Mấy người kia nói anh chàng bắn giỏi thử bắn đi. Anh liền giương cung bắn con chim rớt xuống sông sâu, kéo

theo công chúa. Anh bơi lội mới nói:


Kết cấu

Văn bản

vị này.

“trách nhiệm của tao, tao phải vớt công chúa lên”. Nói xong liền vớt

công chúa lên như đã chết

Vừa kể vừa cười, giọng ra vẻ thú vị. Ba vị kia cũng tỏ vẻ biết, liên tục gật đầu và phụ họa. Ông TT có vẻ hào hứng nên nói tiếng bằng tiếng Việt luôn, không chêm vào tiếng Khmer nữa.

- Anh biết cứu người mới giở phép ra cứu công chúa sống dậy. Sau đó cả bốn người đều muốn lấy công chúa làm vợ. Ai cũng tranh công: Người bắn giỏi nói: “nếu không có tao thì chim đã mang công chúa đi rồi, lấy gì tụi mày cứu”. Anh bói nói: “nếu không có tao đoán thì làm sao mày bắn được?”. Anh bơi lội giỏi nói: “nếu tao hông vớt lên thì làm sao bọn mày có được mà giành?” Anh cuối cùng nói: “nếu tao không cứu công chúa sống thì lấy đâu mà đòi cưới”.

Không ai chịu bỏ hết.

“Ông đó” tức là Phật Thích Ca. Ở đây, chúng tôi ghi nguyên văn diễn ngôn kể của ông TT lại, không biên tập.

- Lúc đó, Thích Ca chưa thành phật, còn đầu thai ở kiếp người, làm con của tỉ phú giàu có, đang đi làm cho vua nước đó. Vua đặt cho ông đó làm toà án để xử kiện.


Một người nhắc “Bắn cung” chứ! Ông TT chữa lại.

Đoạn này còn thiếu một sự giải thích vì sao lại là người biết bơi mới được cưới công chúa làm chồng và vì sao những người kia không được. Tuy nhiên cả những người ngồi đó cũng không nhớ.

- Rồi ông mới hỏi từng, người từng, nghe trình bày lại. Sau đó ông mới phán: Người bói và người cứu sống lại sẽ làm cha với mẹ công chúa. Còn ông bắn súng, (à quên ) bắn cung thì làm anh của cô này. Còn người vớt từ dưới sông lên sẽ làm chồng. Bốn người cũng thỏa thuận đồng ý với cách giải quyết của ông xử kiện.


Kết cấu

Văn bản


- Và đám cưới được tổ chức long trọng cho người này. Làm cho ông bà uống rượu, và hai người này ngồi như là cha mẹ, người kia là anh. Đó trở thành một tục lệ của người Khmer

đến bây giờ.

Một vị chen vào: sau khi cưới người đem bánh đi biếu họ hàng, những người lớn tuổi. Ông TT đồng ý và nói thêm:

- Người Khmer làm lễ cưới phải có hoa cau và buộc thành ba chụm. Một chụm để cho cha mẹ, một chụm để cho anh, chụm còn lại để đặt lên các

món bánh đi cho họ hàng


- Đúng rồi, người ta lấy bánh để trên bàn thờ, hai cái bánh lớn hình rẻ quạt để trên bàn thờ. Người Khmer tổ chức lễ cưới chủ yếu bên nhà gái, nhà trai muốn làm hay không cũng được. Đó

là phong tục.

Tôi hỏi: “Trong đoạn xử kiện của ông quan, thì ổng có nói vì sao chọn anh bơi lội làm chồng không?”. Cả bốn người đều tỏ ra biết và tranh nhau nói. Ông TT giải thích:

“À, ông ấy nói do anh này ôm từ đáy biển lên có sự đụng chạm với nhau”.


Thấy không khí rôm rả tôi hỏi tiếp: “Thầy có biết truyện nào về người

Khmer có nguồn gốc từ đâu không?


Ông TT trả lời: cái đó không rành lắm, có nhưng là truyền thuyết khó tin được, nhớ lựng chựng thôi.


Nhìn chung những câu chuyện mà ông TT kể có sự chấp vá nhiều mảnh,

- Hồi đầu kia người ta nói không có ai trên trái đất này, chỉ có một ông trời ổng sắp đặt có một nữ một nam, rồi họ sanh ra 10 đứa, 5 trai 5 gái. Sau đó sắp xếp cho 5 cặp cưới nhau và chia

thành từng dân tộc. Nguồn gốc giống


Kết cấu

Văn bản

giọng ông kể không tự tin,


Khi kể xong ông TT lại nói: “nhưng mà mấy chuyện này mê tín lắm, đừng có tin. Nghe người ta nói vậy chứ mình chưa biết thế nào. Nghe mấy ông lão kể chứ chưa thấy sách nói

biết có thật hay không.

nhau, nhưng chia thành từng cặp người Hoa, người Việt, người Mĩ, …

Ngưng một thời gian, ông TT nói: “tui có nhớ về chuyện tục lệ trong đám cưới, nói vì sao lúc động phòng cô dâu đi vào trước, người chồng phải nắm vạt áo vợ”. Cái đó có 01 cái tích truyện. Chuyện này là chuyện có thật

ở Campuchia.


Hơi ngừng lại, không biết Chăm hay Chàm. Ba vị kia cũng nói là không rò. Tôi giải thích Chăm và Chàm là giống nhau.


Cách phát âm của ông Thuôl nghe hơi nặng và khác với những người khác. Thay vì là Pras Thông, ông nói thành Pras Thông.


Dừng lại không biết cái cây trong tiếng Việt kêu thế nào nhưng tiếng

Khmer gọi là Boộk Thloốk.

- Hồi đó có một ông vua gọi là À Tích-Pôn-Sa, người Campuchia, có con trai tên là Pras Thông. Ông vua này bị người Chàm chiếm đất, lên ngôi làm vua tại nước đó. Khi hoàng tử Pras Thông lớn lên xin ở lại, nhờ vua Chăm ở nhờ trong cung vua, làm chính trị trong nước của vua Chăm. Pras Thông ở nhờ trong một gốc cây, vốn kiếp trước là con vật.

Có một vị nói: Đâu phải! Phật đi hóa duyên, chứ đâu phải dâng cơm. Ông TT: nói: à, đi hóa duyên.


Đoạn này ông TT đã ghép một chuyện khác của đức Phật vào chi tiết cái cây

- Có con vật ở trong cây đó. Phật đi dâng cơm. Đến trưa ngồi nghỉ lại gốc cây đó, thấy con vật ra nhìn, Phật cho cơm nó ăn. Khi nó mở miệng ra, cái lưỡi nó mở làm hai. Phật mới nói: con vật này kiếp sau nó sẽ làm vua nước

này.


Kết cấu

Văn bản


Có người chen vô: Làm vật chứng giả, nói là sách cũ.


Cách kể thiếu logic, nhớ đâu kể đó. Điều này cho thấy một khía cạnh quan trọng trong việc ghi nhớ truyện dân gian. Chỉ khi nào các tình tiết trong chuyện có ý nghĩa và có chức năng với cộng đồng thì người ta mới dễ ghi nhớ, nếu không thì sẽ rất dễ nhầm lẫn, chắp vá.

Một người khác chen vào: nhưng thực tế là vàng đo mới đem chôn. Ông TT gật đầu và hào hứng kể tiếp.

- Trở lại chuyện Pras Thông. Hoàng tử muốn kiếm cách để lấy lại đất nước mới cho chôn dưới gốc cây Boộk Thloốk một vạn lượng vàng và làm một cuốn sách hơ trên lửa đó cho nó cũ. Sau đó, hoàng tử đi nói với vua Chàm là đất nước này là do vua cha để lại, có vật làm chứng, ông phải ra đi. Vua Chàm không chịu nên cãi nhau. Pras Thông nói: “Thôi có hai vật chứng: một là cuốn sách hai là có một vạn lượng vàng chôn dưới gốc cây, mà chưa lấy”

Một người nói: là đồng hóa dân Chàm. Ông TT đồng ý nhắc lại.

- Pras Thông nói: “Nếu mà vua không đi thì phải có vật chứng như tôi. Còn không thì phải đi đào vàng”. Sau đó quả thật như vậy, vua Chàm tức quá chết đi. Hoàng tử lên ngôi, liền sáp

nhập dân Chàm vào đất nước mình.

Đoạn này mới quay lại câu chuyện chính về hoàng từ và công chúa rắn.

- Vào một đêm nọ, vua thấy khó ngủ bèn đi ra biển, thời đó nước của ông Thông giống nước mình gần biển, ngắm cảnh. Ông gom một số quân ra một hòn đảo nhỏ ngoài biển để tham quan. Nhưng nước cạn mới đi được, nước sâu không đi được. Đám quần thần hát múa cho vua được vui. Do vui quá nên nước dâng lên không thể

về, phải ngủ lại.

Một vị nói: sao tới năm trăm người

lận. Ông TT nói: ai biết, chuyện kể

- Khi ấy công chúa long vương xin

cha lên còi người để vui chơi. Long

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 20/07/2022