Mô Hình Bản Ghi Chép Dùng Trong Điền Dã Thu Thập Truyện Dân Gian Khmer Nam Bộ


Nguyên tắc thực hiện phương pháp quan sát - tham gia có mục tiêu là thể hiện quan điểm của đối tượng nghiên cứu trong một bối cảnh cụ thể, giới hạn về không gian, thời gian và số người tham dự. Tuy nhiên để có khoảnh khắc giới hạn theo đúng nghĩa của một sự kiện kể chuyện thì đòi hỏi người thực hiện phải có một cách tiếp cận dài hạn, tức là yếu tố “tham gia”, tốn khá nhiều thời gian. Malinowski phải mất vài năm ở quần đảo Trobiand để trở thành một “thành viên” của một cộng đồng cư dân nơi ấy mới có thể ghi chép thật tỉ mỉ và thú vị những nét sinh hoạt của họ. Bởi vì, theo Charlie McCormick [163, tr.628-629], chỉ khi nào người nghiên cứu đạt tới trạng thái “thành viên” trong một nhóm người thì dữ liệu mà anh ta thu thập được mới tránh xa kiểu miêu tả “một lối sống không bình thường”, tức là người dân cố tình “diễn” khi có người lạ và biết rò mục đích. Nguyên nhân tâm lí tạo nên sự thay đổi thói quen khi có người lạ vào nhà là một điều không khó hiểu, đặc biệt là đối với những tộc người có nền văn hóa đặc thù, còn lưu giữ những nét riêng, ít bị hiện đại hóa.

Tuy thế, trong thực tiễn hiếm có khi nào mà người nghiên cứu có sự thâm nhập hoàn toàn với cộng đồng mình tham gia vì khi nói tới văn hóa phải nghĩ đó là quá trình cả đời người chứ không phải đo bằng thời gian vài năm; chưa kể là họ cần phải có những kĩ năng thích nghi nhất định. Do đó, chúng ta có thể duy trì một khoảng cách nhất định và dùng phương pháp quan sát với yêu cầu càng giữ nguyên sự vẹn toàn và không thiên vị đối với việc kể chuyện thì càng tốt. Nhưng cũng trớ trêu là nếu chỉ toàn những ghi chép dửng dưng, khách quan tuyệt đối thì nó cũng sẽ vô dụng vì chẳng khác gì một đống chữ viết của một người biết chữ không hề có chủ ý khoa học nào cả. Vì thế, trong việc ghi chép, chúng ta phải chấp nhận việc tham dự có sự tác động của người nghiên cứu và những đối tượng khác ngoài nhóm người có cùng bối cảnh văn hóa-lịch sử.


Với những đặc điểm như vậy, việc ghi lại nội dung của một tác phẩm VHDG trong bối cảnh cần phải có những kĩ năng và thao tác của ghi chép điền dã dân tộc học. Bởi lẽ, ghi ghép điền dã là một cách thức quan trọng để văn bản hoá diễn ngôn kể chuyện, tức là viết lại một sự kiện không còn nữa, chỉ tồn tại trong khoảnh khắc nó diễn ra thành một văn bản. Trong cuốn Viết các ghi chép điền dã dân tộc học [94], các tác giả đã trình bày các vấn đề cơ bản mà người làm công tác điền dã cần tập trung khi ghi chép điền dã dân tộc học gồm: xác định vai trò, vị trí của ghi chép, điền dã cùng với các kĩ năng cụ thể như thực địa (tham dự quan sát và ghi chép nhanh), làm việc tại bàn viết (tạo nên cảnh trang viết dựa trên mục đích và phương pháp viết), cách theo đuổi ý nghĩ các thành viên trong một cộng đồng, xử lí ghi chép (mã hoá và ghi nhớ), và viết một tác phẩm miêu tả dân tộc học. Trong tất cả các kĩ năng đó, thì việc ghi chép có vai trò quan trọng nhất và nó cũng là một kĩ năng có thể được vận dụng vào điền dã sưu tầm folklore trong thực tiễn. Trong việc ghi chép, người thực hiện điền dã cần phải lưu ý đến ba công việc và thái độ yêu cầu: (1) Sự tham dự: phải hiểu là tham gia, có mặt vào một buổi kể chuyện hay hoạt động của cộng đồng hoặc nhóm người. Tuy nhiên nó không chỉ là sự có mặt và ghi chép mà thật sự phải có tinh thần hoà nhập, phải hiểu đó là một sự trải nghiệm của bản thân và là một thao tác tái xã hội hoá những gì diễn ra. Khi tham dự người điền dã phải dự trù đến những tác động có tính phản ứng từ đối tượng và quan trọng nhất của sự miêu tả khi tham gia là chọn một góc nhìn cho mình trước sự kiện bộn bề. (2) Khắc ghi: là hành động chọn lọc, chuyển đổi, giản lược các sự kiện vào văn bản dưới góc nhìn của người điền dã. Đây là hành động cơ bản nhất làm nên hồn cốt một chi chép dân tộc học cho dù các phương tiện băng hình vẫn được sử dụng. Khắc ghi là hành động ghi chép lại bằng một tâm trạng của người tham dự với cộng đồng. Không có khuôn mẫu nào cho người điền dã khi khắc ghi mà chỉ có


một nguyên lí là: căn cứ theo góc nhìn của mình, người điền dã phải thể hiện cho độc giả thấy cảm nhận về những gì mình cho là quan trọng và những gì người tham gia diễn xướng cho là quan trọng. (3) Phân tích ý nghĩa: cái được quan sát tách ra khỏi quá trình sống và mối quan tâm của người bản xứ. Phân tích ý nghĩa là công việc sau khi nhà nghiên cứu đã rời khỏi thực địa nhưng không phải dứt bỏ. Ý nghĩa của một câu chuyện trên văn bản sẽ phải được giải thích nhờ vào cái không khí mà câu chuyện đó được kể.

Qua thực tế nghiên cứu ở các tỉnh thành ĐBSCL, chúng tôi thấy rằng trong việc ghi chép lúc tham gia trực tiếp vào sự kiện là một trở ngại lớn đối với người nghiên cứu văn học chưa qua các trường lớp đào tạo về dân tộc học. Dù một người có khả năng ghi tốc kí nhanh cỡ nào cũng không thể theo kịp nhịp điệu diễn biến của câu chuyện đang được kể ra với tất cả sự nhiệt tình của người kể và không khí mà người nghe tạo ra. Do đó, việc sử dụng các phương tiện thông tin để hỗ trợ là cần thiết. Có thể sử dụng một máy ghi âm để ghi lại lời kể của câu chuyện, còn viết và giấy thì dùng để đặc tả và ghi nhận về mặt tâm lí người tham gia, những xúc cảm mà họ trải qua, những suy nghĩ mà họ biểu lộ qua cử chỉ và những cảm nhận suy nghĩ của bản thân người điền dã về hoạt động ấy. Tốt hơn nữa, có thể sử dụng một chiếc máy quay phim đặt ở một góc cố định để ghi lại toàn bộ khung cảnh của buổi diễn xướng. Khi ấy, người nghiên cứu vừa có cái nhìn tổng quan, vừa ghi chép được chi tiết. Đồng thời, khi xem lại băng ghi hình, lúc này đã ở một trạng thái tỉnh táo, rút mình ra khỏi không khí lễ hội hay nghi thức, chúng ta sẽ có những đánh giá tỉnh táo hơn.

Từ những kinh nghiệm đã có ở các nhà nghiên cứu folklore Việt Nam, có thể trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng ở các lí thuyết trước đây, cho thấy: việc nghiên cứu truyện dân gian trong bối cảnh không phải là sự phủ nhận phương pháp cũ mà nó là sự thay đổi trong quan niệm và cách thức tiến hành.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 284 trang tài liệu này.

Nếu như trước đây, bối cảnh cũng được lưu ý và được ghi bằng những thông tin có ý nghĩa bổ sung cho văn bản chính thì bây giờ các chi tiết của bối cảnh và diễn xướng là một phần không thể thiếu của một diễn ngôn kể chuyện. Sự thâm nhập đa chiều của người nghiên cứu được thể hiện vào trong một bản ghi chép chính là sự khác biệt lớn nhất so với hướng sưu tầm trước đây. Tóm lại, qua những kinh nghiệm của các nhà folklore học Việt Nam và một số quan điểm lí thuyết quốc tế, việc ghi lại một tác phẩm VHDG trong bối cảnh cần đảm bảo các nguyên tắc sau:

1) Một tiết mục/ câu chuyện được mang ra kể/ diễn xướng trong một bối cảnh nào đó không chỉ là một văn bản mà là một diễn ngôn. Cấp độ ngôn ngữ trong lời kể của nghệ nhân không chỉ nằm ở lĩnh vực ngôn ngữ học mà nó được đặt trong mối quan hệ với thực tiễn, với các yếu tố văn hoá khác. Là ngôn từ nhưng nó không đơn giản chỉ là sự quy chiếu vào sự vật hiện tượng mà hướng đến nhiều giá trị khác. Ngôn ngữ được sử dụng trong việc kể chuyện là ngôn ngữ giao tiếp với thông điệp được mã hoá. Về mặt ngôn ngữ, khi thu thập và phân tích folklore nghĩa là nhà nghiên cứu đang ghi nhận và phân tích diễn ngôn. Cho nên, để nắm bắt được các câu chuyện diễn ra trong thực tế, các nhà khoa học phải lưu ý đến nguyên lí của ngôn ngữ được sử dụng trong thực tiễn, đặt trong bối cảnh văn hoá xã hội, và với tư cách diễn ngôn văn hoá. Điều này buộc người điền dã phải ghi chép các lời kể không được bỏ sót các khía cạnh tương tác mà một diễn ngôn thường có. Quyết định ghi cái gì, bỏ cái gì, ngoài mục tiêu chủ quan còn có sự tác động đến bản chất của đối tượng đang được ghi nhận. Phương pháp này đã được nhiều nhà nghiên cứu ủng hộ.

Nghiên cứu truyện dân gian Khmer Nam bộ dưới góc nhìn bối cảnh - 19

2) Việc ghi lại diễn ngôn đó cần phải sử dụng phương pháp ghi chép điền dã dân tộc học để thực hiện. Dưới nhãn quan của người điền dã dân tộc học, người thực hiện việc ghi lại diễn xướng kể chuyện trong bối cảnh sẽ biết


sử dụng những kĩ thuật đặc thù để tái tạo, lưu giữ các khoảnh khắc và thể hiện ra thành văn bản. Ngoài ra, cần phải có các biểu mẫu để thực hiện đồng nhất việc lưu giữ đó. Việc ghi chép một truyện dân gian trong bối cảnh cần thể hiện rò các yếu tố của diễn xướng bối cảnh xung quanh bên cạnh văn bản kể. Sự trung thực đối với lời kể và lựa chọn vấn đề theo quan điểm của nhà nghiên cứu là rất cần thiết. Khái niệm diễn xướng cần được hiểu không phải là hành động biểu diễn bằng động tác tay chân hay cơ thể. Nó không chỉ là cái thể hiện ra bên ngoài mà còn là những tiềm năng ứng xử ẩn sâu bên trong. Đặc tính của diễn xướng là đôi khi rất tình cờ, một lần không lặp lại, một sự tương tác có tính chức năng xã hội giữa những người có mặt với nhau. Nó có tính phổ biến, cơ bản đối với đặc điểm cuộc sống nhân loại. Khi diễn xướng người ta phải đặt tác phẩm trong một tình huống và kéo theo tính sáng tạo. Do đó, người điền dã phải hòa nhập mình vào cuộc kể chuyện để ghi lại những thể hiện ra bên ngoài của những tiềm năng đó.

3) Khi đọc một văn bản ghi nhận truyện dân gian trong bối cảnh diễn xướng, người ta phải thấy được cái thông điệp mà người kể và người nghe thể hiện qua quá trình kể chuyện. Bản thân một truyện được kể là đã được mã hoá nhiều lần để phù hợp với hoàn cảnh và quy ước xã hội. Do đó, về ý nghĩa truyện kể, nhà nghiên cứu sẽ đánh giá được chức năng xã hội bằng khung lí thuyết mà họ đề xuất và những người trong cuộc sẽ cho chúng ta thấy công dụng xã hội của truyện kể. Để đạt những yêu cầu như vừa nêu, quá trình sưu tầm, điền dã của những người làm công tác khoa học dân gian cần phải có tư tưởng và đạo đức nghề nghiệp. Nó không chỉ là vấn đề tư liệu mà quan trọng hơn là những nhận định hay những giá trị được rút ra có liên quan đến văn hoá của một cộng đồng dân tộc. Vì vậy việc tuân thủ những chuẩn mực như “tham” và “liêm” cần phải luôn được duy trì. Để làm được điều đó, tất cả mọi cứ liệu phải rò ràng, tỉ mỉ và chi tiết.


3.3. Mô hình bản ghi chép dùng trong điền dã thu thập truyện dân gian Khmer Nam Bộ

Chức năng của một thể loại được kể chỉ có tác dụng trong bối cảnh nhất định nào đó chứ không có khả năng tác dụng trong nhiều bối cảnh khác. Ví dụ, thần thoại, theo Malinowski, chỉ có ý nghĩa đối với hoàn cảnh sống của tộc người trên đảo Trobiand chứ không chắc sẽ có tác dụng đối với tộc người khác. Một tác phẩm VHDG chỉ có chức năng và giá trị cụ thể, trực tiếp trong một cộng đồng nhất định và nó phải được ghi nhận khi đang diễn xa. Thoát khỏi môi trường đó, bản thân nó và những giá trị xung quanh nó đã bắt đầu thay đổi. Do đó, điền dã là phương pháp căn bản để tiến hành nghiên cứu VHDG trong bối cảnh. Để thực hiện được nguyên tắc này, đòi hỏi người nghiên cứu phải thiết lập mô hình khác với truyền thống thì mới có thể ghi nhận được quá trình diễn ra việc diễn xướng truyện dân gian.

Theo nhà nghiên cứu folklore Hoa Kì Alan Dundes, một định nghĩa về folklore phải có ba cấp độ để phân tích là kết cấu (texture), văn bản (text) và bối cảnh (context) của văn bản đó. Cụ thể hơn, kết cấu chính là đặc điểm ngôn ngữ khi sử dụng bằng cách nói hay viết, văn bản là một dị bản hay một lần kể duy nhất của một câu chuyện, bối cảnh là một tình huống xã hội riêng mà một tác phẩm được sử dụng thật sự. Theo El-Shamy, thì bản ghi chép phải thể hiện được cái gì kích thích tạo nên sự phản ứng kể chuyện và các yếu tố đó phải được bố trí trong sự hòa hợp với các yếu tố môi trường xung quanh. Theo tài liệu hướng dẫn sinh viên các ngành folklore, cách ghi nhận văn bản theo bối cảnh của thư viện trường Đại học bang Utah (Utah State University)

– Hoa Kì [153], thì một “bản ghi chép” dùng để ghi nhận thông tin và diễn biến của một sự kiện diễn xướng, kể chuyện trong một bối cảnh có ba phần: Bối cảnh là những gì quan sát được ngoài văn bản, là những ghi chú của người sưu tầm được thiết lập trước khi có nội dung kể, gồm nơi chốn và


những hoàn cảnh mà văn bản được sưu tầm. Văn bản là nội dung cơ bản của phát ngôn kể. Kết cấu là tất cả những gì mà người ta sử dụng để tạo nên văn bản, là các thủ pháp ở cấp độ bề mặt của văn bản (điệp âm, hiệp vần, hòa phối, điệp từ, và thanh điệu).

Tham khảo những cách làm đã thực hiện trước đây, chúng tôi thấy nhà nhân học người Pháp Jacques Dournes, trong những năm tháng sống và làm việc tại Đông Dương, đã có cách ghi nhận các cuộc điền dã dân tộc học rất đáng tham khảo. Trong tác phẩm viết về Jacques Dournes, Andrew Hardy [1, tr.257-259] cũng đã sử dụng cách ghi nhận chia thành 02 cột: bên trái ghi nội dung, diễn biến câu chuyện/ hoạt động; bên phải ghi cảm nhận, chú thích của tác giả. Ở đây chúng tôi vận dụng cách làm của ông nhưng có sự thay đổi như sau:

Phần bối cảnh gồm các yếu tố: (1) Tựa đề/ sự kiện kể chuyện: người điền dã có thể đặt và trả lời các câu hỏi: sự kiện, câu chuyện nói về cái gì? Nếu không có tựa thì nội dung nào là hợp lí nhất? Cố gắng càng ngắn gọn mà miêu tả được nội dung thì càng tốt. (2) Thể loại: Câu chuyện đang kể thuộc thể loại nào (theo quan điểm của người sưu tầm). Tuy nhiên trong một số trường hợp, vẫn phải hỏi người dân địa phương về tên gọi và nội hàm thể loại. Trường hợp có nhiều câu chuyện thì phần này cũng có thể không cần thể hiện vì thể loại không phải là trọng tâm trong hướng tiếp cận bối cảnh. (3) Người kể và người tham gia: Miêu tả cụ thể hơn về người kể, người cung cấp thông tin, gồm: tên, quê quán và nơi ở hiện tại, tuổi và giới tính; trình độ học vấn, dân tộc, gia đình và tín ngưỡng, nghề nghiệp; sở thích; có mối quan hệ thế nào với người sưu tầm. Nhìn chung càng cụ thể chi tiết về những người tham gia thì việc gợi ý cho cách kiến giải truyện kể càng thuận lợi. Trong quá trình miêu tả những người tham gia, người nghiên cứu có thể chạm đến các yếu tố về truyền thống gia đình, các yếu tố văn hóa rộng lớn của tộc người, những


phong tục tập quán có liên quan, những suy nghĩ và tình cảm của người tham gia tự bộc lộ hoặc do bản thân người điền dã tự cảm nhận trước khi cuộc kể bắt đầu. (4) Tình huống có sự kích thích: Đây là phần quan trọng nhất của việc ghi chép trong hướng nghiên cứu đặt tác phẩm VHDG trong bối cảnh. Người ghi chép phải xác định rò nơi xảy ra câu chuyện, miêu tả cái hoàn cảnh nào mà người kể và người nghe gặp gỡ và kể ra câu chuyện. Người nghiên cứu có thể trả lời những câu hỏi sau như một dạng gợi ý nhằm mở rộng hướng miêu tả: Tiết mục này thường diễn ra ở đâu? Có người nào có thể trình bày tiết mục này khi học nghe hoặc quan sát không? Nếu có thì là ai? Bằng cách nào mà những người này tham gia vào một phần của buổi kể chuyện? Chức năng của tiết mục này trong nhóm người tham gia là gì?

Phần văn bản: là những gì mà người nghiên cứu thu nhận được từ người kể chuyện. Có thể là câu chuyện, truyền thuyết, truyện cười, hoặc các loại truyện kể khác. Cố gắng cung cấp nguyên văn từng chữ một bản ghi lại sự kể chuyện, bao gồm những lời nói tục, các kiểu mở đầu sai, lúc ngập ngừng và thích thú. Rất nhiều trường hợp, cách thức diễn đạt cung cấp những thông tin quan trọng để hiểu nghĩa. Do diễn ngôn kể chuyện được hình thành trong qua trình giao tiếp và đối thoại giữa nhiều người và diễn ra theo các quy tắc hội thoại nên một câu chuyện sẽ không diễn ra như kiểu mà những người văn bản hóa trước đây đã làm. Câu chuyện đó, sẽ bị ngắt quãng và chêm xen vào những đoạn trao đổi của người nghe tương tác với người kể. Câu chuyện đó cũng sẽ được đi kèm với những xúc động của bản thân người kể cũng như người nghiên cứu. Vì vậy, câu chuyện được kể trong bối cảnh có cấu trúc không giống với câu chuyện được văn bản hóa.

Phần kết cấu của văn bản: là phần mà người ghi chép thể hiện “cảm giác” về phong cách của tiết mục được thể hiện; những nhận định về cách thức mà câu chuyện được thể hiện hoặc tạo lập; những đánh giá về cách sử

Xem tất cả 284 trang.

Ngày đăng: 20/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí