Hàng loạt các hiệp định song phương, đa phương đã ký kết và có hiệu lực khiến cho hàng hóa từ thị trường quốc tế dễ dàng tiếp cận thị trường nội địa. Bên cạnh đó, những cam kết từ việc giảm thuế suất và ưu đãi cho các DN thuộc các quốc gia đối tác còn khiến cho giá cả mặt hàng về gần sát với giá cả hàng hóa trong nước. Điều này thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng trong nước, gia tăng sức mua đáng kể và được xem là một cơ hội rất lớn, tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ của các DN bán lẻ do khả năng tiếp cận nguồn cung dễ dàng, với chất lượng và giá cả cạnh tranh, cho phép DN bán lẻ giảm sức ép tìm kiếm nhà cung cấp và giảm quyền lực thương lượng của các nhà cung cấp đến các DN bán lẻ trong ngành.
Từ những nhận định trên, có thể thấy thị trường bán lẻ Việt Nam có nhiều triển vọng để tăng trưởng và phát triển trong thời gian tới. Đây vừa được xem là cơ hội tăng trưởng, cũng vừa được xem là những thách thức đặt ra đòi hỏi các DNBLVN ngoài việc nhanh chóng gia tăng, mở rộng quy mô và phạm vi kinh doanh còn phải đầu tư cải thiện và đổi mới chất lượng và quy trình cung ứng dịch vụ bán lẻ, để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng và đảm bảo khả năng cạnh tranh với các DN bán lẻ ngoại trên thị trường
5.1.2 Quan điểm phát triển ngành bán lẻ Việt Nam
Trong văn kiện Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ định hướng phát triển kinh tế - xã hội như sau: “Phát triển đồng bộ hệ thống phân phối bán buôn, bán lẻ, chú trọng thương mại điện tử và xây dựng thương hiệu hàng hóa Việt Nam. Tăng cường kết nối giữa DN sản xuất, phân phối các Hiệp hội và cơ quan quản lý để phát triển mạnh thị trường trong và ngoài nước, chủ động tham gia mạng lưới phân phối toàn cầu”. Từ văn kiện này có thể thấy định hướng, chủ trương rõ ràng của Đảng và Nhà nước ta về thương mại bán lẻ là xây dựng một nền bán lẻ hiện đại trên cơ sở phát triển đồng bộ và hài hòa cả phương thức bán lẻ offline và bán lẻ online. Đồng thời, việc xây dựng hệ thống chuỗi cung ứng hoàn chỉnh đáp ứng yêu cầu bán lẻ nội địa cũng được xem là một trong những nhiệm vụ then chốt cần thực hiện của ngành bán lẻ đến 2025.
Kế thừa từ quan điểm phát triển đến 2020, Chiến lược phát triển thương mại nội địa định hướng 2025, tầm nhìn 2035 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đặt ra mục tiêu là: (1)- Tốc độ tăng bình quân hàng năm của tốc mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng giai đoạn đến 2025 đạt tương đương 10.7%/ năm; (2)- Tổng múc bán lẻ hàng hóa của khu vực kinh tế trong nước phải chiếm đại đa số, trung bình đạt khoảng 95% trên tổng mức bán lẻ hàng hóa của cả nước; khu vực có vốn đầu tư nước chiếm khoảng 5%; (3)- tỷ trọng tổng mức bán lẻ hàng hóa theo hình thức TMĐT đạt tương đương 30% đến 2020.
Thực hiện và hoàn thành mục tiêu và nhiệm vụ đề ra trong Chiến lược phát triển thương mại nội địa đặt ra những yêu cầu và đòi hỏi cần phải tiến hành đồng bộ, kịp thời và có hệ thống các giải pháp cơ bản và toàn diện, gồm: hoàn thiện thể chế, xây dựng cơ sở hạ tầng và đào tạo phát triển nguồn nhân lực. Trong ba giải pháp này, Nhà nước và Chính phủ đặt trọng tâm vào việc kiện toàn và hoàn thiện thể chế nhằm xây dựng cơ chế và các quy định pháp luật tương đối ổn định, tạo thuận lợi cho phát triển bán lẻ trên thị trường. Các giải pháp và định hướng được đưa ra Chính phủ đưa ra trong khâu hoàn thiện thể chế đầu tư và kinh doanh bán lẻ, gồm: Quyết định số 531/QĐ-TTg ngày 01 tháng 04 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lwocj tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn 2050; Quyết định số 386/QĐ-TTg ngày 17 tháng 03 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển thị trường trong nước; Quyết định số 645/QĐ-TTg ngày 15 tháng 05 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử quốc gia….; Bên cạnh đó, Bộ Luật hỗ trợ DNNVV được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIV có hiệu lực từ 01/01/2018 đã chính thức hoàn thiện khung pháp lý nhằm tạo thuận lợi cho các DNNVV của nước ta nói chung cũng như các DNNVV của VN kinh doanh trong ngành bán lẻ nói riêng. Đây được xem là những bước đi đáng kể trong khâu hoàn thiện thể chế, góp phần tạo điều kiện thúc đẩy các DNBL trong nước phát triển bền vững.
Bên cạnh hoàn thiện khung thể chế chính sách pháp luật, để đảm bảo khả năng cạnh tranh của các DNBL nội địa và phát triển bền vững ngành bán lẻ VN, việc đưa ra các giải pháp toàn diện, hệ thống trong đó tập trung xây dựng và hoàn thiện môi trường kinh doanh bán lẻ được xem là ưu tiên hàng đầu và là cơ sở nền tảng cho việc lựa chọn các phương thức hành động cụ thể trong từng giai đoạn và thời kỳ. Trước hết, cần xác định phương hướng và mục tiêu dài hạn cho phát triển bền vững thị trường bán lẻ nội địa. Từ đó đưa ra các kế hoạch, hành động và hướng đi cụ thể, đúng đắn với lộ trình phù hợp, gắn liền với xu thế phát triển của ngành bán lẻ và xu thế phát triển của TMĐT. Đồng thời, các chính sách triển khai chiến lược cũng cần gắn với việc bảo vệ môi trường sinh thái và định hướng tăng trưởng xanh và bền vững mà Chính phủ đã phát động trong thời gian qua. Bên cạnh đó, Chính phủ và các cơ quan quản lý vĩ mô cần ban hành kịp thời và đầy đủ các chính sách h triển khai và thực hiện chiến lược trên cơ sở tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ triệt để cho các DNBL nói chung và các DNBLVN nói riêng từng bước nâng cao NLtham gia thị trường một cách ổn định và lâu dài. Cuối cùng, phát triển thị trường bán lẻ bền vững cần gắn với việc thúc đẩy việc đa dạng hóa phương thức bán lẻ, hỗ trợ và đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng thương mại bán lẻ, cơ sở hạ tầng xã hội và cơ sở hạ tầng CNTT để vừa là
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh Giá Các Phát Hiện Nghiên Cứu Từ Nghiên Cứu Định Lượng
- Đánh Giá Sự Ảnh Hưởng Của Năng Lực Xây Dựng & Phát Triển Thương Hiệu Tới Kết Quả Hoạt Động Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp Bán Lẻ Việt Nam
- Thực Trạng Năng Lực Tích Hợp Đa Kênh Của Các Dnblvn
- Giải Pháp Nâng Cao Năng Lực Xây Dựng & Phát Triển Thương Hiệu
- Giải Pháp Nâng Cao Năng Lực Đồng Xây Dựng Thương Hiệu
- Một Số Kiến Nghị Với Hiệp Hội Bán Lẻ Việt Nam
Xem toàn bộ 235 trang tài liệu này.
tăng tính hấp dẫn của môi trường kinh doanh, vừa là tạo điều kiện để các DNBL dễ dàng ứng dụng và triển khai đồng thời nhiều phương thức bán lẻ mới, hiện đại để thích ứng với những yêu cầu mới của ngành bán lẻ.
5.1.3 Định hướng nâng cao năng lực động của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam
Thực trạng nghiên cứu đã cho thấy vai trò và ý nghĩa của việc nuôi dưỡng và phát triển các năng lực động trong DN. Trong điều kiện môi trường biến động, việc tạo dựng được các năng lực động giúp DN nói chung và các DNBLVN nói riêng thay đổi và thích ứng tốt hơn để từ đó đạt được kết quả hoạt động kinh doanh như kỳ vọng. Chương 4 đã chỉ ra thực trạng về các thành tố năng lực động, đặc điểm và mối quan hệ giữa các thành tố cũng như sự ảnh hưởng của các thành tố năng lực động đến kết quả hoạt động kinh doanh của DNBLVN. Để tăng cường tiềm lực cạnh tranh và duy trì vị thế trên thị trường, các DNBLVN cần chú trọng nuôi dưỡng và phát triển đồng bộ cả bốn nhóm năng lực động này. Quan điểm và định hướng về xây dựng và phát triển năng lực động của các DNBLVN đến 2025, tầm nhìn 2030 được thể hiện như sau:
Một là, tăng cường công tác quản trị chiến lược trong DN thông qua việc hoạch định chiến lược, triển khai chiến lược, điều chỉnh chiến lược, tái cơ cấu hoạt động kinh doanh tương thích với điều kiện của thị trường và đáp ứng tối đa nhu cầu của người tiêu dùng. Chú trọng phát triển nguồn nhân lực DN, đảm bảo đáp ứng yêu cầu về trình độ, kỹ năng và tay nghề, đáp ứng với yêu cầu mới trong phát triển DNBL nói chung và phát triển năng lực động của các DNBLVN nói riêng
Hai là, việc nâng cao năng lực động nên được thực hiện theo thứ tự và mức độ ưu tiên, căn cứ vào mức độ tác động của từng thành tố năng lực động của DNBLVN.
Ba là, với định hướng nâng cao năng lực hấp thụ: cần tăng cường công tác rà soát, đánh giá và phân tích môi trường bên ngoài. Xây dựng cơ chế tiếp nhận, học hỏi và ứng dụng các tri thức, kinh nghiệm mới từ thị trường và từ đối thủ cạnh tranh. Tạo môi trường văn hóa học hỏi trong toàn DN, tái cơ cấu DN để tăng tính chủ động, linh hoạt thích ứng và thay đổi với những biến động khách quan từ bên ngoài.
Bốn là, với định hướng nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo: tăng cường các hoạt động đổi mới sáng tạo trong toàn DN. Khuyến khích mọi thành viên trong DN đổi mới sáng tạo nhằm tạo nên một DN sáng tạo, phát huy vai trò độc lập, chủ động và trách nhiệm trong mỗi thành viên. Cải thiện chất lượng quản trị DN thông qua áp dụng các phương thức quản trị tiên tiến.
Năm là, với định hướng nâng cao năng lực xây dựng & phát triển thương hiệu: cần xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu dài hạn. Tận dụng tối đa quan hệ tốt đẹp với các đối tác để thực hiện các chiến lược đồng xây dựng thương hiệu. Tăng cường liên kết và hợp tác với các đối tác và các bên liên quan; xây dựng mối quan hệ hợp tác
thân thiện, tin cậy trên nguyên tắc tư duy win – win. Tận dụng mối quan hệ đối tác để cùng khuếch trương thương hiệu DN đến người tiêu dùng. Phát triển và quảng bá thương hiệu bài bản, thường xuyên cập nhật thông tin phản hồi từ phía khách hàng về thương hiệu để kịp thời đưa ra các phương án điều chỉnh chiến lược phù hợp.
Sáu là, với định hướng nâng cao năng lực tích hợp đa kênh: cần thường xuyên cập nhật, theo dõi các xu thế kinh doanh bán lẻ mới cả trong và ngoài nước. Dự báo, đánh giá hiệu quả của các xu thế bán lẻ và đưa ra các quy trình triển khai, ứng dụng các công nghệ bán lẻ mới, góp phần đáp ứng nhu cầu đa dạng và ngày càng cao của người tiêu dùng. Cần đẩy mạnh nghiên cứu thị trường và truyền thông quảng bá thương hiệu, tích hợp dữ liệu thông tin khách hàng trên cả kênh online và offline để quản trị quan hệ khách hàng hiệu quả. Cần tích hợp kênh online để đẩy mạnh các hoạt động quảng bá thương hiệu, các chương trình xúc tiến thương mại nhằm gia tăng hiệu quả truyền thông và tăng tỷ lệ hồi đáp từ phía đối tương nhận tin trọng điểm. Cần đa dạng hóa kênh bán lẻ thông qua xây dựng chiến lược bán lẻ đa kênh. Xây dựng lộ trình phù hợp để tiến tới tích hợp hoàn toàn hệ thống bán lẻ đa kênh, cho phép người tiêu dùng có những trải nghiệm liên tục và đồng nhất tại mọi loại hình kênh bán lẻ của DN.
5.2 Các giải pháp nâng cao năng lực động để cải thiện kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam
Dựa trên kết quả phân tích định lượng đánh giá mức độ ảnh hưởng (hệ số Beta, mức độ tác động f2 với các giả thuyết tác động trực tiếp và hệ số Beta với các giả thuyết tác động gián tiếp) và kết quả đánh giá thực trạng năng lực động được xác định ở chương 4, luận án đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm cải thiện kết quả hoạt động kinh doanh thông qua nâng cao các thành tố năng lực động của các DNBLVN. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra mức độ tác động giữa các yếu tố tới kết quả hoạt động kinh doanh có sự khác biệt nhất định. Trong đó, thứ tự ưu tiên cho các giải pháp căn cứ vào mức độ quan trọng của từng yếu tố tới kết quả hoạt động kinh doanh của các DNBLVN được sắp xếp như sau: (1)- Năng lực hấp thụ (hệ số Beta của tổng mức độ tác động là 0.462; (2)- Năng lực tích hợp đa kênh (hệ số Beta đạt 0.426, f2 đạt 0.295); (3)- Năng lực xây dựng & phát triển thương hiệu (hệ số Beta đạt 0.393, f2 đạt 0.170); (4)- Năng lực đổi mới sáng tạo (hệ số Beta đạt 0.110). Từ các quan điểm và định hướng nâng cao năn lực động của các DNBLVN được chỉ rõ trong phần 5.1, các giải pháp cải thiện kết quả hoạt động kinh doanh trên cơ sở nâng cao năng lực động của các DNBLVN đến năm 2025, tầm nhìn 2030 được đưa ra cụ thể như sau:
5.2.1 Giải pháp nâng cao năng lực hấp thụ
Kết quả phân tích định lượng ở chương 4 đã cho thấy năng lực hấp thụ đóng vai trò là tiền đề quan trọng nhất trong cải thiện và nâng cao kết quả hoạt động kinh
doanh. Với tổng mức tác động (hệ số Beta) là 0.462, năng lực hấp thụ đã cho thấy sự tác động mạnh mẽ và tích cực đến kết quả hoạt động kinh doanh thông qua sự ảnh hưởng đáng kể của năng lực hấp thụ tới năng lực xây dựng & phát triển thương hiệu và năng lực tích hợp đa kênh. Bên cạnh đó, xét trong mối quan hệ trực tiếp đã cho thấy sự ảnh hưởng và tác động rất mạnh của năng lực hấp thụ tới việc cải thiện năng lực xây dựng & phát triển thương hiệu (hệ số Beta đạt 0.679 và hệ số mức tác động f2 đạt 0.817). Đồng thời, năng lực hấp thụ cũng được xem là một yếu tố quan trọng giúp cải thiện mạnh mẽ năng lực tích hợp đa kênh của các DNBLVN (với hệ số tác động trực tiếp Beta là 0.412 và f2 đạt 0.250).
Với bốn thành tố đo lường cho năng lực hấp thụ là: năng lực lĩnh hội tri thức, năng lực đồng hóa tri thức, năng lực chuyển đổi tri thức và năng lực ứng dụng tri thức; để duy trì và nuôi dưỡng năng lực động, các DNBLVN cần chú trọng phát triển đồng thời cả bón nhóm năng lực này. Từ quan điểm, định hướng nâng cao năng lực động để cải thiện kết quả hoạt động kinh doanh được đề cập ở phần 5.1, các giải pháp đề xuất được đặt theo mức độ ưu tiên cho những nhóm năng lực quan trọng nhất đến nhóm năng lực ít quan trọng thông qua xem xét hệ số tải ngoài Outer-loading. Theo đó, các giải pháp nâng cao năng lực hấp thụ được ưu tiên theo thứ tự: năng lực ứng dụng tri thức (hệ số Outer-loading đạt 0.946); năng lực đồng hóa tri thức (hệ số Outer- loading đạt 0.942); năng lực chuyển đổi tri thức (hệ số Outer-loading đạt 0.883); và năng lực lĩnh hội tri thức (hệ số Outer-loading đạt 0.881).
5.2.1.1 Giải pháp nâng cao “NL ứng dụng tri thức”
Thứ nhất, tăng cường tính chủ động trong phát triển công nghệ bán lẻ mới. Đây là yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất đến NL ứng dụng tri thức, được thể hiện bởi chỉ số tải ngoài cao nhất, đạt 0.869. Tuy nhiên, thực trạng lại cho thấy đây là yếu tố mà hiện nay các DNBLVN còn thực hiện chưa tốt với giá trị trung bình mà kết quả khảo sát nhận được là 2.16. Do vậy, cần nâng cao nhận thức và tính chủ động trong việc đón nhận các công nghệ bán lẻ mới cho DN. Mỗi DNBLVN cần coi việc phát triển và khai thác các công nghệ mới trong lĩnh vực bán lẻ là yếu tố then chốt tạo nên sự thành công trong DN. Trong thời đại hiện nay, công nghệ thông tin và Internet trở nên phổ biến đã tạo ra những xu hướng mua sắm mới của khách hàng. Điều này tạo nên sức ép cho các DNBL nói chung và các DNBLVN nói riêng trong việc tìm kiếm các phương thức bán lẻ mới và đưa các phương thức bán lẻ này vào hoạt động bán lẻ của DN, góp phần cải thiện vị thế của DN. Việc thiết lập bộ phận chuyên trách nghiên cứu, đánh giá, ứng dụng và khai thác công nghệ bán lẻ là việc mà các DNBLVN nên xem xét thực hiện. Bộ phận này không chỉ giúp các DNBL nội địa tao ra các công nghệ bán lẻ mới mà còn lại nơi chuyên trách việc thử nghiệm và đánh giá tính khả thi
của các công nghệ mới này để từ đó đưa ra các khuyến nghị, đề xuất cho ban lãnh đạo về các quyết định ứng dụng tri thức và công nghệ bán lẻ vào DN.
Thứ hai, nâng cao khả năng sẵn sàng ứng dụng và chia sẻ kinh nghiệm vào cải thiện hoạt động kinh doanh của các DNBLVN. Kết quả kiểm tra chỉ số tải ngoài cho thấy đây là yếu tố có ảnh hưởng mạnh thứ hai tới NL ứng dụng tri thức (Outer-loading đạt 0.838). Với giá trị Mean đạt khiêm tốn (2.23) cho thấy hiện nay việc chia sẻ kinh nghiệm vào quá trình kinh doanh của các DNBLVN còn hạn chế. Chính vì vậy, trong thời gian tới, các DNBL nội địa cần xây dựng các cơ chế khuyến khích các thành viên chia sẻ kinh nghiệm để cùng cải thiện kết quả hoạt động kinh doanh của toàn DN. DNBL cần đề cao vai trò và tầm quan trọng của việc kết hợp làm việc nhóm thông qua học hỏi, chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm giữa các thành viên nhóm để cùng tạo nên một tập thể chủ động, sáng tạo trong công việc. Việc này cần phải được thực hiện đồng thời tại tất cả các bộ phận của DN và phải được thường xuyên nuôi dưỡng và thực hiện. Các DN có thể tổ chức các buổi tọa đàm và phân công các thành viên lần lượt chia sẻ kinh nghiệm thực tế trong lĩnh vực chuyên môn được giao. Trên cơ sở đó, các thành viên khác cùng đưa ra các nhận xét, góp ý nhằm giúp mỗi cá nhân hoàn thiện bản thân hơn cũng như giúp tạo nên một tập thể chuyên nghiệp và hiệu quả.
Thứ ba, nâng cao tính chủ động trong khai thác tri thức mới. Yếu tố này có mức độ ảnh hưởng quan trọng thứ 3 đến NL ứng dụng tri thức, với hệ số Outer-loading được xác định là 0.807. Với giá trị Mean chỉ đạt 2.37 cho thấy mức độ đáp ứng của các DNBLVN với yếu tố này mới ở mức độ trung bình. Do vậy, trong thời gian tới, DNBL nội địa cần nâng cao tính chủ động trong khai thác các tri thức mới có liên quan đến lĩnh vực bán lẻ. Các DNBLVN cần coi việc thay đổi và tiếp nhận các thành tựu mới, các tri thức mới và các kinh nghiệm đã được kiểm chứng vào hoạt động là yếu tố quan trọng. Để tạo được tính chủ động, việc đầu tiên là cần thay đổi tư duy và quan điểm của ban lãnh đạo DN cũng như các nhà quản trị trong việc sẵn sàng chấp nhận thay đổi. Quan điểm của ban lãnh đạo đóng vai trò quan trọng, tác động tới các quyết định và hành động của tất cả các phòng ban và bộ phận của DN, để chủ động sử dụng các tri thức mới và đánh giá một cách nghiêm túc hiệu quả của các tri thức mới đó đến hiệu suất hoạt động của từng bộ phận, phòng ban. Trên cơ sở đó, các DNBLVN có thể đánh giá một cách chính xác về mức độ phù hợp và đưa ra các quyết định về việc tiếp tục khai thác hay cần xem xét thay đổi cho tương thích với đặc thù của DN hay không.
5.2.1.2 Giải pháp nâng cao năng lực đồng hóa tri thức
Để nâng cao năng lực đồng hóa tri thức, các DNBL nội địa cần chú trọng cải thiện đồng thời cả sáu yếu tố phản ánh năng lực này, căn cứ vào hệ số tải ngoài Outer-
loading, việc cải thiện được thực hiện theo thứ tự ưu tiên như sau: (1)- cải thiện công tác quản trị tri thức trong toàn DN; (2)- phát triển nguồn nhân lực đáp ứng với yêu cầu mới; (3)- thường xuyên tham dự các khóa đào tạo và các sự kiện liên quan đến tri thức cũng như các lĩnh vực chuyên môn; (4)- nâng cao khả năng thích ứng với các tiêu chuẩn và chuẩn mực trong ngành; (5)- tăng cường tham gia các hoạt động truyền bá tri thức; và (6)- cải thiện khả năng ứng dụng và đồng bộ các tri thức mới với tri thức hiện tại.
Thứ nhất, DNBLVN cần nâng cao hơn nữa nhận thức về vai trò và tầm quan trọng của quản trị tri thức trong DN. Mặc dù là yếu tố quan trọng nhất của năng lực đồng hóa tri thức nhưng các DNBL nội địa mới thực hiện công tác này ở mức độ khiêm tốn (trị số Mean đạt 2.16). Do vậy, trong thời gian tới, các DNBL có thể xem xét thiết lập bộ phận chuyên trách về quản trị tri thức. Nhân lực cho bộ phận này cũng cần phải được đào tạo và có trình độ về quản trị tri thức. Ngoài ra, họ cũng phải là người am hiểu về DN, về đặc thù kinh doanh bán lẻ và về những xu hướng, thay đổi trong ngành bán lẻ để có những đánh giá, nhận định một cách khách quan, phù hợp và kịp thời trong công tác lĩnh hội, chuyển đổi, ứng dụng và truyền đạt tri thức mới đến các bộ phận/ phòng ban có liên quan.
Thứ hai, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng với yêu cầu mới. Hiện tại, các DNBL trong nước đã phần nào quan tâm và có những chính sách nhất định cho việc đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực với mức đánh giá cho yếu tố này đạt
3.02. Chính vì vậy, trong thời gian tới, các DNBLVN cần tiếp tục duy trì việc phát triển nguồn nhân lực này. DNBL có thể phối kết hợp với các trường Đại học, Viện nghiên cứu, Hiệp hội để tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn để nâng cao trình độ chuyên môn của người lao động. Các buổi tọa đàm, buổi trao đổi nội bộ cũng nên được tổ chưc định kỳ, thường xuyên trên cơ sở chia sẻ kinh nghiệm làm việc trong DN. DN nên có cơ chế khuyến khích người lao động học hỏi, tự trau dồi và nâng cao trình độ bản thân để đáp ứng tốt với những điều kiện mới trong DN.
Thứ ba, chủ động và tích cực tham dự các khóa đào tạo và các sự kiện liên quan đến tri thức và các lĩnh vực chuyên môn. Thực tế cho thấy các DNBLVN còn chưa thực sự quan tâm đến hoạt động này (giá trị trung bình đạt 2.08). Bởi vậy, DNBL nội địa cần có nhận thức cao hơn về tầm quan trọng của học tập và đào tạo, cử nhân sự phù hợp tham gia các khóa đào tạo của Hiệp hội, của Ngành hay của các cơ quan có liên quan khác. Bên cạnh đó, các DN cần chủ động gia nhập các Hội, Ban, Ngành có liên quan đến bán lẻ để thiết lập mối quan hệ cũng như tạo môi trường chia sẻ tri thức, chia sẻ kinh nghiệm và các phương thức bán lẻ mới, góp phần cải thiện hệ thống, quy trình và công nghệ bán lẻ của chính DN.
Thứ tư, nâng cao khả năng thích ứng với các tiêu chuẩn và chuẩn mực trong ngành. Trước sự thay đổi và biến động mạnh mẽ của ngành bán lẻ, các DNBLVN cần tiếp tục phát huy tính chủ động, xây dựng cấu trúc tổ chức mở để sẵn sàng linh hoạt, thích ứng với những yêu cầu mới, chuẩn mực mới. Các DNBL nội địa cần luôn đặt mình trong trạng thái sẵn sàng thay đổi, cải tiến, tái cấu trúc để thích ứng với điều kiện mới, xu thế mới. Việc này không chỉ đơn thuần ở khẩu hiệu hay ở văn bản hoạch định chiến lược của DN mà nó cần phải được hiểu, được thực hiện bởi tất cả các thành viên trong DN.
Thứ năm, tăng cường việc tham gia truyền bá tri thức trong nội bộ DN cũng như giữa DN với Hiệp hội và các Ban, Ngành có liên quan. Cùng với việc tham dự các khóa đào tạo, việc tham gia với tư cách là một thành viên chia sẻ tri thức, kinh nghiệm bán lẻ của mình với các thành viên khác cũng là một điều nên được các DNBLVN chú trọng. Sự chia sẻ ở đây không chỉ đơn thuần là mô tả những thành tích của DN mà còn có mang lại lợi ích cho DN, bởi mỗi lần DN chia sẻ kinh nghiệm sẽ là một lần DN nhận được những ý kiến, đóng góp đa chiều và khách quan từ chính các thành viên, các DNBL khác để từ đó DN có thể hoàn thiện mình hơn nữa.
Thứ sáu, gia tăng khả năng ứng dụng và đồng bộ các công nghệ bán lẻ mới với công nghệ bán lẻ hiện tại. Kết quả phân tích thực trạng cho thấy hiện tại các DNBL nội địa đánh giá mức độ đạt được của khả năng này là trung bình (với giá trị Mean đạt 2.54). Trong thời gian tới, chắc chắn CMCN 4.0 sẽ còn mang lại nhiều phương thức bán lẻ mới, nhiều công nghệ bán lẻ mới đòi hỏi các DNBLVN phải luôn chủ động và sẵn sàng thử nghiệm và đồng thời ứng dụng, triển khai các công nghệ mới. Có như vậy mới đảm bảo cho các DNBL nội địa không bị tụt lại phía sau.
5.2.1.3 Giải pháp nâng cao năng lực chuyển đổi tri thức
Để nâng cao năng lực chuyển đổi tri thức, các DNBLVN cần nuôi dưỡng và phát triển đồng thời cả ba yếu tố này. Trên cơ sở xem xét mức độ quan trọng của từng yếu tố thông qua chỉ số Outer-loading, mức độ ưu tiên cho việc nuôi dưỡng và cải thiện các yếu tố này như sau: (1)- Duy trì và nâng cao khả năng sử dụng công nghệ thông tin để truyền bá tri thức; (2)- Cải thiện khả năng trao đổi các thông tin khoa học và công nghệ mới; và (3)- Cải thiện khả năng thích ứng tốt với các điều kiện và sự kiện mới.
Thứ nhất, nâng cao khả năng sử dụng công nghệ thông tin để truyền bá tri thức. Mặc dù yếu tố này được xem là quan trọng, nhưng thực tế mức độ đáp ứng yêu cầu của các DNBLVN với yếu tố này còn khá khiêm tốn với giá trị Mean là 2.43. Do vậy, trong thời gian tới, DNBL nội địa cần lưu ý đến việc rà soát các công nghệ mới trong truyền tải và lưu trữ thông tin; xem xét và đánh giá mức độ phù hợp của từng loại hình công nghệ thông tin với đặc thù của DN để từ đó đưa ra các quyết định ứng dụng