Quá Trình Hình Thành Và Phát Triển Của Ngân Hàng Việt Nam



Hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính Nhật Bản trong tình trạng gần như tê liệt hoàn toàn. Trước tình hình đó Chính phủ Nhật Bản có kế hoạch rót 13 nghìn tỷ yên và đề nghị khoản hỗ trợ trị giá 50 nghìn tỷ yên dưới hình thức trái phiếu và các phiếu bảo đảm của chính phủ vào tháng 2/1998; trong đó, dành riêng 13 nghìn tỷ yên để hỗ trợ vốn cho các ngân hàng và khu vực tài chính và 17 nghìn tỷ yên để bảo vệ người gửi tiền. Số tiền này được chuyển cho công ty bảo hiểm tiền gửi Nhật Bản để thanh toán, hoặc để mua chứng khoán ưu đãi của các ngân hàng yếu có thể mất khả năng thanh toán và hỗ trợ cho Quỹ Bồi thường tiền gửi và chứng khoán được Chính phủ đứng ra bảo lãnh các khoản vay của ngân hàng Nhật Bản và các trái phiếu do quỹ này phát hành. Cũng thời điểm đó, Chính phủ Nhật Bản vừa quyết định cấp ngân sách bổ sung 43 nghìn tỷ yên để vực dậy hệ thống ngân hàng của nước này. Ngân hàng Công nghiệp Nhật Bản là ngân hàng đầu tiên yêu cầu được rót thêm tiền từ công quỹ để phục hồi ổn định. Việc làm này sẽ cho phép bơm tiền của Nhà nước vào một ngân hàng, một công ty tài chính hay một công ty chứng khoán bị phá sản để tái bảo hiểm cho các nhà đầu tư, tăng trách nhiệm trả nợ tài sản và ngăn ngừa việc mất tín nhiệm trên TTCK. Bộ Tài chính Nhật Bản cũng quyết định nới lỏng các tiêu chuẩn đánh giá rủi ro của thương phiếu do ngân hàng nắm giữ, nhằm giúp các ngân hàng dễ dàng hơn trong việc đáp ứng yêu cầu của ngân hàng thanh toán quốc tế. Ngoài ra, Bộ Tài chính Nhật cũng quyết định hạ lãi suất cho vay ngắn hạn nhằm tạo cơ hội cho các ngân hàng Nhật Bản có thể vay được các khoản tín dụng ngắn hạn để đầu tư vào chứng khoán dài hạn và thu được lợi nhuận. Lãi suất tái chiết khấu của NHTW cũng được giảm từ 0,5% xuống còn 0,25%, mức thấp nhất kể từ trước tới nay nhằm giảm bớt gánh nặng cho các NHTM. Thậm chí, Thống đốc NHTW Nhật Bản, ông Hayami Masaru còn tuyên bố: Nếu áp dụng mức 0% có thể kéo nền kinh tế lên thì NHTW sẵn sàng áp dụng mức lãi suất này.

+ Tại Mỹ: Năm 2008 “bong bóng” bất động sản (BĐS) xuất hiện tại Mỹ với trên một triệu chủ nhà đất đối mặt với nguy cơ tịch thu tài sản thế nợ. Các khoản nợ xấu khiến nhiều ngân hàng thua lỗ nặng. Nhiều ngân hàng phải tiến hành sáp nhập và thậm chí tuyên bố phá sản như: Lehman Brothers, Merrill Lynch, Countrywide Financial, Bear Stearns, Ameribank… Nguyên nhân là do: “bong bóng” BĐS “vỡ”. Đây là



nguyên nhân chính dẫn đến các ngân hàng "sống dở chết dở". Trước năm 2006, lợi nhuận đã tạo động lực khiến các ngân hàng Mỹ xem nhẹ khả năng chi trả của khách hàng, đẩy mạnh cho vay cầm cố BĐS. Dư nợ cho vay cầm cố BĐS tăng từ 160 tỷ USD (năm 2001) lên 540 tỷ USD (năm 2004), và nhảy vọt lên 1.300 tỷ USD vào năm 2007. Cuối quý III/2008, hơn một nửa giá trị thị trường BĐS Mỹ là tiền đi vay với 1/3 là các khoản nợ khó đòi. Trước tình hình này, Chính phủ Mỹ đã đưa ra các chính sách hỗ trợ thông qua chính sách tiền tệ, nghiệp vụ thị trường mở, chương trình đấu giá cho vay kỳ hạn và Chính phủ cũng thực hiện các gói cứu trợ lớn.

Một là, chính sách tiền tệ. Ngay khi khủng hoảng nhà ở thứ cấp nổ ra, FED bắt đầu can thiệp bằng cách hạ lãi suất. Lãi suất cho vay liên ngân hàng đã giảm từ 5,25% qua 6 đợt xuống còn 2% (từ 18/9/2007 - 30/4/2008). Sau đó, lãi suất vẫn tiếp tục giảm và đến ngày 16/12/2008 chỉ còn 0,25% - mức lãi suất thấp gần bằng 0 hiếm thấy.

Hai là, nghiệp vụ thị trường mở. FED thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thông qua mua lại trái phiếu Chính phủ Mỹ mà các ngân hàng của nước này đang nắm giữ. Tính đến ngày 31/03/2010, FED đã hoàn thành việc mua 1,25 nghìn tỷ USD nhưng vẫn tiếp tục tiến hành các giao dịch trong những tháng tiếp theo. Chương trình mua lại MBS của chi nhánh được điều phối bởi Ngân hàng Dự trữ Liên bang chi nhánh New York dưới sự chỉ đạo của Ủy ban thị trường mở Liên bang. Mục tiêu của chương trình này nhằm hỗ trợ cho thị trường thế chấp và nhà ở đồng thời giúp phục hồi thị trường tài chính.

Ba là, chương trình đấu giá cho vay kỳ hạn. Ngày 17/12/2007, trước ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn, FED đưa ra Chương trình Đấu giá cho vay kỳ hạn (TAF), nhằm tăng cường tính thanh khoản của thị trường tín dụng Mỹ. TAF cho phép các tổ chức nhận ký gửi đấu giá để được vay những khoản vay ngắn hạn đổi bằng tài sản ký quỹ. Những tổ chức này phải được thẩm định là có tình trạng tài chính lành mạnh. Các tổ chức tham gia đấu giá qua các ngân hàng của FED. Các khoản đấu giá bắt đầu ngày 17/12/2007, với mức lãi suất khởi điểm 4,17% và kết thúc ở 4,65%, FED đã nhận được các khoản ký quỹ trị giá 63 tỷ USD và cho vay 20 tỷ USD với 93 tổ chức khác nhau. Tính đến tháng 11/2008, đã có 300 tỷ USD được FED cho vay theo chương trình TAF.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 188 trang tài liệu này.



Năng lực tài chính của các Ngân hàng thương mại Việt Nam - 9

Bốn là, tái cấu trúc ngân hàng. Bộ Tài chính Mỹ khuyến khích các ngân hàng tham gia một chương trình tái cấp vốn. Các ngân hàng có thể nhận được tiền bằng cách đề nghị bán cổ phiếu ưu đãi cho Bộ Tài chính. Việc tái cấp vốn được thực hiện trên diện rộng với một số điều kiện như giới hạn lương, bồi thường cho ban lãnh đạo ngân hàng. Đây là một phần của Chương trình cứu trợ tài sản gặp rắc rối vào tháng 11/2008. Các ngân hàng tham gia Chương trình này là thành viên của Cơ quan FDIC và được FDIC bảo hiểm tạm thời trong Chương trình bảo hiểm tạm thời về khả năng thanh toán tiền mặt. Ngoài ra, FED đã cho vay tới 200 tỷ USD đối với những tài sản được xếp hạng tín nhiệm AAA…

Với những biện pháp xử lý kịp thời và hiệu quả, ngành ngân hàng Mỹ đã có những khởi sắc. Cụ thể, JP Morgan Chase & Co. - ngân hàng lớn nhất nước Mỹ đạt lợi nhuận trong quý II/2013 tăng 31%, lên 6,5 tỷ USD trên số doanh thu là 25,2 tỷ USD, cao hơn so với lợi nhuận 5 tỷ USD và doanh thu 22,2 tỷ USD của cùng kỳ năm 2012. Trong khi đó, Ngân hàng Wells Fargo công bố lợi nhuận quý II/2013 tăng 19,4%, lên 5,5 tỷ USD, so với 4,6 tỷ USD của cùng kỳ năm 2012, nhờ chất lượng tín dụng được cải thiện trong thị trường nhà đất và hoạt động cho vay cao hơn. Tuy nhiên, công cuộc xử lý các ngân hàng yếu kém của Mỹ cũng có mặt hạn chế. Hạn chế lớn nhất trong quyết định của Chính phủ Mỹ là để cho ngân hàng Lehman Brothers sụp đổ. Điều này đã gây hỗn loạn trong hệ thống ngân hàng vì ngân hàng nào cũng nghĩ rằng mình sẽ là nạn nhân tiếp theo. Đồng thời, Lehman Brothers sụp đổ đã dẫn đến nhiều hệ lụy không tốt.

+ Tại Hàn quốc: Bán đấu giá nợ xấu cho ngân hàng nước ngoài để các NHTMNN thu hồi một phần vốn từ tài sản có không sinh lời, nâng cao tiềm lực tài chính. Hàn Quốc đã bán 51% Korea Firt Bank cho New Bridge Bank (Mỹ).

- Cho phép các tổ chức tài chính nước ngoài mua cổ phần hạn chế trong một số NHTMNN: Trung Quốc trong tiến trình cổ phần hoá các NHTMNN đã cho phép một số tập đoàn tài chính nước ngoài mua cổ phần hạn chế tại một số NHTM sau cổ phần hoá. Cuối tháng 1/2006, cùng một lúc, ba tập đoàn tài chính lớn là Goldman Sachs Inc. (Mỹ), Allianzn AG (Đức) và American Express (Mỹ) đã đầu tư tổng cộng 3,78 tỷ USD để mua



10% cổ phần của ngân hàng Công Thương Trung Quốc, NHTM quốc doanh lớn nhất Trung Quốc.

- Xoá bỏ chi nhánh làm ăn thua lỗ, mở chi nhánh đến khu vực đang phát triển

Việc xoá bỏ những chi nhánh kinh doanh thua lỗ sẽ giúp ngân hàng cắt giảm chi phí, tập trung nguồn lực vào những hoạt động có ích có khả năng tạo ra lợi nhuận cao.

Việc mở chi nhánh đến các khu vực đang phát triển là xu hướng ngược lại với việc xoá bỏ những chi nhánh làm ăn thua lỗ. Một ngân hàng có thể thực hiện theo cả 2 hướng ngược chiều này, nhờ có việc phát triển chính sách này mà đến nay đã hình thành những tập đoàn tài chính có mạng lưới khắp toàn cầu như: Citibank, Morgan, FujiBank, Deuche bank…Việc phát triển chi nhánh đã tạo ra thị trường tiềm năng rộng lớn, mang tính toàn cầu, mặt khác tránh được rủi ro tập trung vào nền kinh tế.

1.6.2. Bài học đối với Việt Nam

Từ thực tế tại Việt Nam và kinh nghiệm nâng cao năng lực tài chính của ngân hàng các nước, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm về các giải pháp nâng cao năng lực tài chính của các NHTM Việt Nam để có thể phát triển ổn định bền vững và hội nhập quốc tế.

- Một là, các NHTM phải nhận thức được những yêu cầu và thách thức cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế, từ đó mỗi NHTM phải có lộ trình và bước đi cụ thể để không ngừng nâng cao năng lực trên cơ sở tận dụng những lợi thế cạnh tranh sẵn có. Các giải pháp nâng cao năng lực tài chính NHTM:

+ Cần quan tâm đầu tư thích đáng về công nghệ hiện đại, tin học, đào tạo nguồn nhân lực gắn với công nghệ và các sản phẩm dịch vụ hiện đại theo thông lệ. Lấy trang bị công nghệ và sản phẩm dịch vụ hiện đại làm bước đột phá để tạo đà cho sự phát triển hoạt động ngân hàng.

+ Giữ vững trạng thái hoạt động ổn định thông qua việc giám sát và quản lý rủi ro hệ thống bởi việc tuân thủ các chỉ số hoạt động đã được xác định về giới hạn an toàn theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế.

+ Điều hành hoạt động ngân hàng, ngoài nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội theo đường lối của Đảng và Nhà nước, chấp hành và thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia nhưng phải lấy hiệu quả làm mục tiêu hướng tới trong hoạt động kinh doanh để từng bước



phát triển ổn định, bền vững tiến tới hội nhập trong nước và quốc tế.

+ Tăng sức mạnh, sức cạnh tranh để phát triển là cần thiết song không phải vì thế mà bất chấp chi phí và làm giảm sút khả năng sinh lời mà phải tiết kiệm chi phí, nâng cao khả năng sinh lời đủ bù đắp chi phí, dự phòng và đáp ứng đủ cho khả năng bổ sung vốn điều lệ để nâng cao năng lực tài chính, mở rộng qui mô hoạt động trong nước và quốc tế.

- Hai là, hiện nay các NHTM Việt Nam đang trong tình hình tài chính chưa đủ mạnh để cạnh tranh với các ngân hàng trong khu vực thể hiện ở số nợ xấu không có khả năng thu hồi lớn, tỷ lệ an toàn vốn thấp, vì vậy để nâng cao năng lực tài chính trước hết cần tập trung xử lý dứt điểm nợ tồn đọng, nợ xấu, để lành mạnh hoá bảng tổng kết tài sản, nhằm tăng vị thế, sức cạnh tranh, tăng sức chịu đựng rủi ro, đẩy mạnh khả năng thanh khoản. Thông qua việc lành mạnh hoá năng lực tài chính, đồng thời phải có các giải pháp tăng vốn:

+ Để xử lý nợ xấu đòi hỏi các NHTM phải có sự nỗ lực quyết tâm, áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết tạo nguồn để tự xử lý. Tuy nhiên, việc xử lý nợ xấu còn đòi hỏi có sự hỗ trợ từ Chính phủ về cơ chế, chính sách, về nguồn tài chính và các chính sách thuế ưu đãi. Giải pháp xử lý nợ xấu thường được sử dụng như:

Cơ cấu lại nợ, giãn nợ, bán nợ, Nhà nước phát hành trái phiếu mua nợ…

Cho phép áp dụng các biện pháp làm trong sạch bảng tổng kết tài sản như xoá nợ đối với các khoản nợ có DPRR,…

+ Tăng vốn tự có cho NHTM bằng nhiều giải pháp như: từ các nguồn lực tài chính tự bản thân ngân hàng, trong đó giải pháp sáp nhập, hợp nhất, mua lại là một giải pháp nhanh chóng để các ngân hàng trở thành những ngân hàng, tập đoàn tài chính lớn. Để một mặt có đủ sức đối chọi với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của các ngân hàng, định chế tài chính xâm nhập từ nước ngoài và có đủ sức vươn thị trường ra bên ngoài nền kinh tế. Mặt khác, mở rộng qui mô ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu qui mô vốn ngày càng gia tăng của các doanh nghiệp, tập đoàn tài chính xuyên quốc gia.

Bên cạnh đó, Chính phủ cũng cần có các giải pháp như cấp thêm vốn, phát hành trái phiếu để tăng vốn, cần tháo gỡ các cơ chế chính sách tài chính, hình thức sở hữu để các NHTMNN có đủ điều kiện về qui mô vốn và tài sản để mở rộng qui mô hoạt động, ổn định, an toàn, bền vững phát triển và hội nhập.



- Ba là, thực hiện việc cơ cấu lại cùng với việc xây dựng các thể chế hoạt động phù hợp với sự phát triển và tiến trình hội nhập. Việc cơ cấu lại ngân hàng ở các nước đang phát triển nhằm tạo ra một hình ảnh ngân hàng lành mạnh hơn. Để đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại ngân hàng, nhiều nước đã thành lập cơ quan cơ cấu lại ngân hàng. Cơ quan này giúp Chính phủ đề ra các giải pháp cụ thể để cải tổ và nâng cao năng lực tài chính của NHTM.

- Bốn là, cải cách khuôn khổ pháp lý liên quan đến hoạt động ngân hàng như hoàn thiện các Bộ luật, văn bản pháp qui về tiền tệ, ngân hàng, tự do hoá lãi suất, ngừng hoặc giảm cấp tín dụng của Chính phủ cho những DNNN làm ăn không có hiệu quả thông qua hệ thống ngân hàng, hoàn thiện qui chế giám sát, kiểm soát.

Tháo gỡ cho ngân hàng về cơ chế chính sách, các định chế liên quan đến hoạt động tài chính về trích lập dự phòng, xử lý rủi ro, tăng nguồn lực tài chính về quản lý nguồn nhân lực, tiền lương, tuyển dụng, về quan hệ quản lý, quản trị điều hành, về hạch toán kế toán theo thông lệ quốc tế, xử lý dứt điểm nợ quá hạn, đa dạng hóa sở hữu…

- Năm là, Chính phủ các nước Đông Nam Á rất thận trọng trong việc phát triển ngành ngân hàng, ủng hộ tự do hoá nhưng sẽ thực hiện dần dần từng bước phù hợp với điều kiện thực tế, tạo điều kiện cho các NHTM trong nước có thời gian chuẩn bị. Việt Nam cũng cần có lộ trình phù hợp để phát triển ổn định, bền vững các NHTM:

+ Hoàn thiện, mở rộng và đẩy mạnh hoạt động của thị trường vốn, tiền tệ, tài chính, chứng khoán…nhằm tạo ra nhiều công cụ để các ngân hàng hướng tới hoạt động đa năng, đa dạng các sản phẩm dịch vụ nhất là các sản phẩm dịch vụ phát sinh, hướng tới hội nhập trong nước và quốc tế.

+ Bổ sung vốn và nguồn lực cho các NHTMNN để tăng cường các chỉ số phản ánh năng lực cân đối về vốn trước khi cổ phần hoá. Củng cố các NHTMCP theo hướng chỉ để lại những ngân hàng hoạt động có hiệu quả và thiết thực cho phát triển kinh tế xã hội.

+ Tăng cường việc thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động của các ngân hàng phù hợp với các thể chế chung và thể chế của từng ngân hàng để các ngân hàng hoạt động có hiệu quả thực chất, tránh để rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, phá sản, gây ra phản ứng dây chuyền ảnh hưởng không tốt đến hệ thống ngân hàng, đến nền kinh tế.

+ Với cách nhìn nhận ngân hàng là ngành công nghiệp huyết mạch lớn nhất, liên



quan đến tất cả các lĩnh vực hoạt động kinh doanh của nền kinh tế và toàn bộ đời sống xã hội. Rủi ro hoạt động ngân hàng là rủi ro lớn nhất, không chỉ liên quan đến cả nền kinh tế xã hội, nó có tính quốc tế hoá cao, chi phối hầu hết các loại thị trường. Hoạt động có hiệu quả của hệ thống ngân hàng là sự hưng thịnh của nền kinh tế xã hội của một thể chế (Nhà nước). Vì vậy, ngân hàng cần Nhà nước ủng hộ về thể chế, định chế, nguồn lực ban đầu, giám sát chặt chẽ để phát triển ổn định, bền vững, kinh doanh có hiệu quả, tạo điều kiện cho nó sớm đủ điều kiện hội nhập trong nước và quốc tế để mở đường cho các ngân hàng phát triển tốt trong điều kiện khó khăn như hiện nay, đồng thời tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế xã hội ở các lĩnh khác.

Kết luận chương 1

Tóm lại, ở chương 1, tác giả đã trình bày những vấn đề lý luận chung về NHTM, hoạt động kinh doanh của NHTM; Tài chính, Năng lực tài chính của NHTM, các tiêu chí phản ánh năng lực tài chính của NHTM là: Vốn chủ sở hữu lớn, nhóm chỉ tiêu về qui mô và tăng trưởng tổng tài sản, khả năng sinh lời cao và ổn định, hoạt động kinh doanh an toàn. Ngoài ra, tác giả đã đưa ra các chuẩn mực để đánh giá năng lực tài chính của NHTM, đồng thời cũng đề cập tới các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tài chính của NHTM, tại phần 1.6 của chương, tác giả đã nghiên cứu kinh nghiệm nâng cao năng lực tài chính của một số NHTM trên thế giới và các bài học rút ra đối với các NHTMVN.

Toàn bộ nội dung này được dùng làm cơ sở cho việc phân tích chi tiết ở chương 2 tiếp theo sau.



CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG NĂNG LỰC TÀI CHÍNH CỦA

HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠI 2003-2012

2.1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng Việt Nam

Việt Nam ngày 6/5/1951 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt nam, với tổng giám đốc đầu tiên là cố phó Chủ tịch Nguyễn Lương Bằng, chính thức khai sinh một ngành kinh tế rất trọng yếu của Nhà nước - ngành Ngân hàng. Ngân hàng quốc gia Việt Nam ban đầu có những nhiệm vụ chủ yếu là: quản lý việc phát hành giấy bạc và tổ chức lưu thông tiền tệ, quản lý kho bạc nhà nước, huy động vốn và cho vay phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hóa, quản lý các hoạt động tín dụng bằng biện pháp hành chính, quản lý ngoại hối và các khoản giao dịch bằng ngoại tệ và đấu tranh tiền tệ với địch. Ngày 21/1/1960 Ngân hàng quốc gia Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đến năm 1975 các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế cũng như hệ thống Tiền tệ -Ngân hàng theo mô hình ở miền Bắc đã áp dụng thống nhất trong cả nước. Song do nhiều nguyên nhân mà trong nhiều năm liên tục, cán cân thanh toán quốc tế bội chi rất lớn, kinh tế vĩ mô mất cân đối nghiêm trọng, tình hình tài chính tiền tệ căng thẳng, lạm phát phi mã tới 3 con số (774%), sản xuất đình trệ ... Đại hội Đảng lần thứ 6 đã đề ra đường lối đổi mới cho đất nước, 2 pháp lệnh ngân hàng đươc công bố ngày 24/5/1990 là cơ sở pháp lý quan trọng khẳng định sự thay đổi mạnh mẽ của ngân hàng: Từ Ngân hàng một cấp thành Ngân hàng hai cấp. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan quản lý nhà nước về Tiền tệ tín dụng và là Ngân hàng Trung ương, hệ thống Ngân hàng thương mại với chức năng kinh doanh. Hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, qua thực tiễn đã yêu cầu đưa hoạt động Ngân hàng vào khuôn khổ pháp luật cao hơn, hai pháp lệnh Ngân hàng đã được tổng kết, nâng lên thành hai luật được thông qua và có hiệu lực thi hành từ 1/10/1998. Từ đây, ngành Ngân hàng đã đóng góp rất nhiều cho sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc và phát triển ngày càng lớn với 4 ngân hàng thương mại quốc doanh 31 chi nhánh của 26 Ngân hàng nước ngoài, 4 Ngân hàng liên doanh, 35 Ngân hàng thương mại cổ phần, 959 quỹ tín dụng nhân dân và một số công ty tài chính khác.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 29/11/2022