thị trường dịch vụ tài chính nói chung và dịch vụ ngân hàng nói riêng kém phát triển nhất. Với năng lực cạnh tranh cũng như năng lực tài chính hạn chế, nên nếu không thận trọng các NHTMVN sẽ mất thị phần khách hàng về tay các NHTM nước ngoài. Do vậy những nỗ lực củng cố sức mạnh tài chính của các NHTMCP trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết, không chỉ với những ngân hàng yếu mà ngay cả với những ngân hàng được coi là “khỏe”.
- Với tình hình tài chinh của số lớn các NHTMCP,các biện tái cơ cấu hiện nay của Chính phủ và NHNN sẽ khiến không ít các NHTM phải trải qua nhiều chông gai trên con đường khảng định sức mạnh tài chính của mình.
Không chỉ yêu cầu toàn ngành phải đưa nợ xấu về dưới 3% trong năm nay, Thống đốc NHNN còn đưa ra các con số cần thực hiện cụ thể như: đến ngày 30/6/2015 phải xử lý được tối thiểu 60% số nợ xấu phải xử lý theo kế hoạch năm 2015, chỉ tiêu bán nợ xấu cho VAMC phải đạt không dưới 75% tổng số nợ xấu dự kiến bán trong cả năm 2015. Thông tư 36/2014/TT-NHNN quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài(có hiệu lực từ 1/2/2015), Thông tư mới ban hành sẽ siết quy định về sở hữu chéo giữa các TCTD. Đây là quy định rất quan trọng để kiểm soát một ngân hàng cùng với thành viên hội đồng quản trị, hội đồng thành viên có “sân sau”của mình trong hoạt động cấp tín dụng, góp vốn mua cổ phần.
Những chỉ đạo thông qua chỉ thị và chính sách ban hành thực hiện trong năm 2015 cho thấy, việc làm rõ sở hữu chéo và đẩy mạnh xử lý nợ xấu là những giải pháp quyết liệt mà Chính phủ và NHNN xác định coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của ngành ngân hàng trong năm 2015 và các năm tiếp theo.Đây là những biện pháp cần thiết phải thực hiện nếu muốn có một hệ thống ngân hàng lành mạnh. Tuy nhiên, không ít các ngân hàng đang đứng trước những gian nan khi phải vượt qua những thách thức đặt ra. Sẽ có những ngân hàng không thể trụ vững để giữ tên của mình, có những ngân hàng buộc phải nỗ lực mạnh mẽ nhằm đáp ứng các tiêu chí tồn tại. Giai đoạn 2015- 2020 sẽ không còn chỗ đứng cho những ngân hàng yếu kém, đó là thông điệp mà các ngân hàng phải nỗ lực tận dụng để xác lập vị trí xứng đáng của mình.
3.1.2 Định hướng nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam đến 2020.
3.1.2.1. Định hướng phát triển hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
Theo quyết định 112/2006/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề án phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 là: Cải cách căn bản, triệt để và phát triển toàn diện hệ thống các TCTD theo hướng hiện đại, hoạt động đa năng để đạt trình độ phát triển trung bình tiên tiến trong khu vực ASEAN với cấu trúc đa dạng về sở hữu, về loại hình TCTD, có quy mô hoạt động lớn hơn, tài chính lành mạnh, đồng thời tạo nền tảng đến sau năm 2010 xây dựng được hệ thống các TCTD hiện đại, đạt trình độ tiên tiến trong khu vực Châu á, đáp ứng đầy đủ các chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng, có khả năng cạnh tranh với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. Bảo đảm các TCTD, kể cả các TCTD nhà nước hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc thị trường và vì mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận. Phát triển hệ thống TCTD hoạt động an toàn và hiệu quả vững chắc dựa trên cơ sở công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến, áp dụng thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động NHTM. Phát triển các TCTD phi ngân hàng để góp phần phát triển hệ thống tài chính đa dạng và cân bằng hơn. Phát triển và đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là huy động vốn, cấp tín dụng, thanh toán với chất lượng cao và màng lưới phân phối phát triển hợp lý nhằm cung ứng đầy đủ, kịp thời, thuận tiện các dịch vụ, tiện ích ngân hàng cho nền kinh tế trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hình thành thị trường dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là thị trường tín dụng cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các loại hình TCTD, tạo cơ hội cho mọi tổ chức, cá nhân có nhu cầu hợp pháp, đủ khả năng và điều kiện được tiếp cận một cách thuận lợi các dịch vụ ngân hàng. Ngăn chặn và hạn chế mọi tiêu cực trong hoạt động tín dụng.
Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống ngân hàng. Tách bạch tín dụng chính sách và tín dụng thương mại trên cơ sở phân biệt chức năng cho vay của ngân hàng chính sách với chức năng kinh doanh tiền tệ của NHTM. Bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của TCTD trong kinh doanh. Tạo điều kiện cho các TCTD trong nước nâng cao năng lực quản lý, trình độ nghiệp vụ và khả năng cạnh tranh. Bảo
Có thể bạn quan tâm!
- Những Tồn Tại Trong Việc Nâng Cao Năng Lực Tài Chính Của Các Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Việt Nam
- Mức Độ Bù Đắp Nợ Xấu Bằng Dự Phòng Rủi Ro Của Các Nhtmcp Giai Đoạn 2009- 2014.
- Định Hướng Và Quan Điểm Nâng Cao Năng Lực Tài Chính Của Các Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Việt Nam Đến Năm 2020, Tầm Nhìn Đến 2030.
- Quy Trình Xây Dựng Chiến Lược Hoạt Động Kinh Doanh.
- Nâng Cao Năng Lực Quản Trị Ngân Hàng Đặc Biệt Là Quản Trị Rủi Ro Và Quản Trị Điều Hành
- Tăng Cường Các Biện Pháp Phòng Ngừa Rủi Ro Tín Dụng.
Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.
đảm quyền kinh doanh của các ngân hàng và các tổ chức tài chính nước ngoài theo các cam kết của Việt Nam với quốc tế. Gắn cải cách ngân hàng với cải cách doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước. Tiếp tục củng cố, lành mạnh hoá và phát triển các NHTMCP; ngăn ngừa và xử lý kịp thời, không để xảy ra đổ vỡ ngân hàng ngoài sự kiểm soát của NHNN đối với các TCTD yếu kém. Đưa hoạt động của quỹ tín dụng nhân dân đi đúng hướng và phát triển vững chắc, an toàn, hiệu quả.
Phương châm hành động của các TCTD là "An toàn - Hiệu quả - Phát triển bền vững - Hội nhập quốc tế".
Theo quyết định số 175/QĐ- TTg ngày 27/1/2011 về phê duyệt chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của Việt nam đến năm 2020 có nêu: “Phát triển ổn định và bền vững hệ thống ngân hàng là yêu cầu xuyên suốt chiến lược và quá trình thực hiện chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng; nâng cao năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động ngân hàng”.
Như vậy định hướng hoạt động của hệ thống ngân hàng đến năm 2020 thể hiện qua hai quyết định của thủ tướng chính phủ với hai điểm nhấn quan trọng:
Thứ nhất: Hướng tới việc xây dựng và phát triển hệ thống ngân hàng ổn định, bền vững. Sự phát triển của mỗi ngân hàng không chỉ “tăng trưởng bằng mọi giá”, mà phải đặt trong một hệ thống với yêu cầu chung là ổn định và bền vững để đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. Đây cũng chính là “bàn đạp”để các NHTMVN có đủ năng lực phát triển trong điều kiện hội nhập quốc tế;
Thứ hai: Nâng cao năng lực quản trị rủi ro của các ngân hàng. Trong quá trình hoạt động các ngân hàng luôn phải đối mặt với rủi ro, hơn nữa mức độ rủi ro sẽ gia tăng cùng với xu hướng mở rộng hoạt động của hệ thống ngân hàng. Chính vì vậy, điều đòi hỏi đối với ngân hàng là nâng cao năng lực quản trị rủi ro để có thể đương đầu với rủi ro trong quá trình kiếm tìm lợi nhuận.
3.1.2.2. Định hướng nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
Giai đoạn 2011- 2015 là giai đoạn cơ cấu lại các tổ chức tín dụng với định hướng được quy định tại quyết định 254/QĐ- TTg ngày 1/3/2012 đạt được nhiều thành tựu khá quan trọng trong việc xây dựng một hệ thống ngân hàng lành mạnh. Sự an toàn, ổn định của hệ thống các TCTD đã được duy trì và cải thiện cơ bản, đã
và đang thực hiện các bước cơ cấu toàn diện các NHTM yếu kém... Cùng với đó, các giải pháp xử lý nợ xấu đã phát huy tác dụng (đặc biệt là thông qua VAMC) đã góp phần quan trọng nâng cao chất lượng tín dụng và giảm tỷ lệ nợ xấu so với tổng dư nợ. Về cơ bản nợ xấu đã được xử lý, chất lượng tín dụng được cải thiện; nợ xấu toàn hệ thống đã được đưa về mức nằm trong giới hạn an toàn của NHNN, hoàn thành vượt mục tiêu đề ra. Với việc áp dụng đầy đủ chuẩn mực mới về phân loại nợ, nợ xấu ngân hàng đã được minh bạch hơn, không còn tồn tại 02 số liệu nợ xấu (số liệu theo báo cáo của TCTD và số liệu theo kết quả giám sát của NHNN). Kết quả xử lý nợ xấu đạt được đã góp phần quan trọng cải thiện thanh khoản, giảm mặt bằng lãi suất, mở rộng khả năng tăng trưởng tín dụng nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Bên cạnh những kết quả đạt được trong giai đoạn 2011-2015, hệ thống ngân hàng Việt Nam còn nhiều tồn tại, hạn chế về khả năng cạnh tranh, năng lực tài chính, quản trị, công nghệ và nhân lực cần phải khắc phục nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế trong giai mới ở trình độ cao hơn. Những yếu kém nói trên đã tồn tại từ lâu làm cho hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung và các NHTMCP nói riêng thiếu tính ổn định, tiềm ẩn nhiều rủi ro gây mất an toàn và dễ bị tổn thương khi môi trường kinh doanh và thị trường trong nước, quốc tế biến động bất lợi. Vì vậy giai đoạn 2016-2020, định hướng nâng cao năng lực tài chính đối với hệ thống ngân hàng nói chung và các NHTMCP nói riêng là:
- Tiếp tục thực hiện các giải pháp đồng bộ để xử lý nợ xấu như; Sử dụng quỹ dự phòng rủi ro; Cùng khách hàng tháo gỡ khó khăn để thu hồi nợ; Bán nợ cho VAMC..đây được coi là biện pháp cần thiết cấp bách trong giai đoạn 2016-2020. Tăng trưởng tín dụng phái đi đôi với việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro nhằm nâng cao chất lượng tín dụng.
- Tăng vốn tự có của các NHTM bằng lợi nhuận để lại; phát hành cổ phiếu, trái phiếu; sáp nhập; hợp nhất; mua lại. Kiên quyết xử lý các NHTMCP yếu kém và có khả năng gây rủi ro lớn cho hệ thống ngân hàng, bao gồm cả các biện pháp giải thể, phá sản các NHTMCP theo quy định pháp luật, song đảm bảo không gây tác động lớn về mặt kinh tế - xã hội. Bảo đảm duy trì mức vốn tự có của các NHTM
phù hợp với quy mô tài sản có trên cơ sở thực hiện tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo chuẩn mực quốc tế.
- Khuyến khích hoặc có những can thiệp cần thiết trong việc mua, bán và hợp nhất ngân hàng để hình thành những ngân hàng “Đủ lớn- Đủ mạnh” đáp ứng yêu cầu cạnh tranh trong điều kiện tự do hóa tài chính ngày càng sâu rộng. Về quan điểm trong xắp xếp lại các NHTMCP thì xu hướng hình thành những ngân hàng có quy mô lớn là cần thiết, nhưng điều đó không có nghĩa là chỉ cho phép tồn tại những ngân hàng có quy mô lớn. Bên cạnh những ngân hàng có vai trò trụ cột, vẫn cần có những ngân hàng quy mô vừa và nhỏ hoạt động có hiệu quả trong một phân khúc thị trường thích hợp và đáp ứng nhu cầu dịch vụ ngân hàng mỗi tầng lớp trong xã hội.
- Các NHTMCP phải cạnh tranh lành mạnh và hoạt động một cách công khai, minh bạch, đồng thời đáp ứng đầy đủ các chuẩn mực về quản trị và an toàn hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật.Kiểm soát quy mô, tốc độ tăng trưởng và phạm vi hoạt động kinh doanh của NHTMCP phù hợp với điều kiện tài chính và năng lực quản trị.
3.1.3 Quan điểm nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại cổ phần
Quan điểm 1: Nâng cao năng lực tài chính luôn là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình hoạt động của các NHTMCP Việt Nam.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, áp lực cạnh tranh đối với các ngân hàng ngày càng gay gắt, nâng cao năng lực tài chính là yếu tố sống còn của các NHTM. Với mục tiêu kinh doanh vì lợi nhuận, các NHTM phải tăng sức chống đỡ đối với rủi ro. Lợi nhuận càng cao rủi ro sẽ càng lớn, vì vậy nâng cao năng lực tài chính là vấn đề cấp thiết với bất kỳ ngân hàng nào trong quá trình hoạt động.
Quan điểm 2: Nâng cao năng lực tài chính luôn phải gắn liền với chiến lược, mục tiêu hoạt động của ngân hàng thương mại cổ phần trong từng giai đoạn.
Mỗi một NHTM đều có những mục tiêu hoạt động của mình, có thể là những mục tiêu trong ngắn hạn hay mục tiêu chiến lược dài hạn. Do đó, năng lực tài chính phải đảm bảo để NHTM có thể thực hiện tốt nhất những mục tiêu đặt ra của mình. Như vậy có thể nói, một NHTM được coi là có năng lực tài chính tốt thì trước tiên
phải đảm bảo yêu cầu thực hiện mục tiêu của NHTM. Mặc dù xét về bản chất kinh doanh, cái đích cuối cùng mà NHTM hướng tới là lợi nhuận, nhưng con đường tìm kiếm lợi nhuận không phải NHTM nào cũng giống nhau nên yêu cầu về năng lực tài chính cũng khác nhau. Nếu một NHTM xác định thị trường mục tiêu ở khu vực nông thôn thì mức độ đòi hỏi những yêu cầu về năng lực tài chính không như những NHTM theo đuổi thị trường thành thị với những lĩnh vực kinh doanh đa năng hơn. Hơn nữa, năng lực tài chính của mỗi một NHTM không phải là vô hạn do các điều kiện tác động nên mục tiêu đặt ra cũng phải phù hợp với khả năng về năng lực tài chính. Với những ngân hàng có năng lực tài chính hạn chế mà trong khi lại theo đuổi những mục tiêu quá cao có thể làm gia tăng nguy cơ mất an toàn cho các NHTM đó. Trong điều kiện phát triển của nền kinh tế thị trường, áp lực cạnh tranh đối với NHTM ngày càng gia tăng. Mục tiêu của các NHTM là phải “thắng”được các đối thủ cạnh tranh, điều đó không cho phép các NHTM “dừng chân”mà luôn phải phát triển các điều kiện chủ quan để làm tăng thêm khả năng thực hiện các hoạt động của mình.
Quan điểm 3: Nâng cao năng lực tài chính phải đảm bảo tính bền vững, an toàn hoạt động của hệ thống NHTM.
Do tính chất kinh doanh đặc biệt của NHTM, nên NHTM không thể kinh doanh bất chấp rủi ro để đạt được mục đích lợi nhuận. Nâng cao năng lực tài chính của NHTM phải đảm bảo sự tồn tại và phát triển bền vững, không xảy ra những đổ vỡ hay phá sản ngân hàng. Tình trạng phát triển “nóng”của NHTM như tăng trường cho vay quá mức, hay mở rộng quá nhiều lĩnh vực đầu tư vượt quá khả năng kiểm soát rủi ro của NHTM có thể dẫn đến nguy cơ mất an toàn cho các NHTM. Nâng cao năng lực tài chính của NHTM, không chỉ là tăng sức mạnh tài chính của NHTM hiện tại mà sức mạnh tài chính này phải được duy trì một cách bền vững. Điều này đòi hỏi các NHTM phải có một lộ trình với những bước đi thận trọng chứ không phải chỉ “cuốn theo thị trường”. Đã có nhiều cuộc khủng hoảng ngân hàng trên thế giới xuất phát từ sự gia tăng quá mức năng lực tài chính của các NHTM. Để mở rộng quy mô, tăng bức đêm chống đỡ rủi ro việc gia tăng mạnh quy mô vốn chủ sở hữu ngân hàng đã tạo nên sức ép với các NHTM về việc mở rộng qui mô cho vay hay đầu tư. Chính điều này đã làm cho việc tăng năng lực tài chính trở thành phản
tác dụng. Để đảm bảo sự phát triển an toàn của các NHTM đòi hỏi vai trò “giám sát”của các cơ quan lý, định hướng và điều tiết hoạt động của các NHTM theo yêu cầu chung về an toàn hệ thống.
Quan điểm 4: Nâng cao năng lực tài chính phải đáp ứng với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Khi thị trường dịch vụ tài chính đã dần mở cửa, các cam kết quốc tế đã được ký kết và thực hiện như hiệp định thương mại Việt Mỹ, AFTA, WTO và tới đây là hiệp định TTP đòi hỏi các NHTM phải đủ sức “chiến đấu”không chỉ với các NHTM trong nước, mà còn phải đối mặt với những ngân hàng “hùng mạnh”có tầm cỡ quốc tế. Điều đó cho thấy nâng cao năng lực tài chính phải đáp ứng được những yêu cầu chuẩn mực quốc tế. Nói một cách khác, nếu ví chặng đường phát triển của các NHTM như những bậc thang phải bước lên, thì bậc thang mà các NHTM buộc phải bước tới là điểm mà tiếp cận được các yêu cầu theo chuẩn mực quốc tế.
Quan điểm 5: Nâng cao năng lực tài chính đòi hỏi NHTM luôn phải đáp ứng đầy đủ yêu cầu của khách hàng về vốn và các dịch vụ ngân hàng phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội trong nước.
Khả năng tạo lập và sử dụng vốn không chỉ xuất phát từ mục tiêu riêng của mỗi NHTM. Là một trung gian tài chính, hệ thống các NHTM phải khảng định vai trò “huyết mạch”của nền kinh tế. Hoạt động của NHTM bao trùm lên tất cả các hoạt động kinh tế xã hội, sứ mệnh của các NHTM là đáp ứng tối đa nhu cầu vốn của các chủ thể trong nền kinh tế. Vì vậy, việc nâng cao năng lực tài chính phải phù hợp với những yêu cầu về vốn cũng như các dịch vụ ngân hàng khác mà nền kinh tế đòi hỏi. Mặt khác, việc nâng cao năng lực tài chính của NHTM cũng phải đảm bảo yêu cầu tăng trưởng bền vững của nền kinh tế. Không phải trong mọi trường hợp, việc gia tăng mạnh mẽ lượng vốn đáp ứng cho nền kinh tế cũng hoàn toàn được coi là đúng đắn khi nó có thể tạo ra những bất ổn của nền kinh tế như lạm phát, nguy cơ suy thoái kinh tế do khai thác quá nhanh nguồn lực của nền kinh tế..
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC TÀI CHÍNH TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM.
3.2.1. Xây dựng chiến lược hoạt động kinh doanh ngân hàng nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững
Chiến lược kinh doanh của một Ngân hàng được hiểu là một chương trình hoạt động tổng thể và dài hạn nhằm tạo ra một bước phát triển nhất định của Ngân hàng, là sự cam kết trước về các mục tiêu cơ bản, toàn diện mà một ngân hàng cần đạt được và sự phân bổ các nguồn lực quan trọng để đạt được các mục tiêu đó trong môi trường hoạt động tương lai.Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, do lĩnh vực kinh doanh đầy rủi ro nên kết quả hoạt động của ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào tính đúng đắn của các chiến lược kinh doanh được xây dựng cũng như khả năng thực thi chiến lược đó. Với áp lực cạnh tranh ngày càng lớn trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi các ngân hàng cần xây dựng cho mình lộ trình phù hợp để đủ sức đối mặt với các đối thủ cạnh tranh. Thực tế như đã phân tích, một trong những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế về năng lực tài chính của các NHTMCP trong thời gian vừa qua đó là chiến lược kinh doanh quá nóng của một số các NHTMCP, xu hướng mở rộng lĩnh vực kinh doanh một cách ồ ạt, tốc độ tăng trưởng huy động vốn, cho vay quá cao đã khiến nhiều NHTMCP phải đối mặt với rủi ro gia tăng. Vì vậy, khi xây dựng chiến lược kinh doanh các Ngân hàng nên lưu ý những vấn đề sau:
3.2.1.1. Quan điểm xây dựng chiến lược hoạt động kinh doanh:
Khái thác thế mạnh của mỗi ngân hàng. Trong quá trình hoạt động, sự lớn mạnh không ngừng là yêu cầu cần thiết cho mỗi ngân hàng trước những áp lực cạnh tranh. Tuy nhiên, để chiến thắng cạnh tranh vấn đề không chỉ là “lớn mạnh”bằng các ngân hàng khác, mà các ngân hàng nên xây dựng chiến lược để khai thác tốt nhất thế mạnh hay lợi thế của mỗi ngân hàng. Lợi thế của mỗi ngân hàng sẽ tạo nên sự khác biệt cũng như giúp các ngân hàng có thể luôn vững vàng trước những áp lực cạnh tranh ngày càng khốc liệt.Trước những cú sốc của thị trường thì rủi ro sẽ được giảm thiểu khi các ngân hàng biết khai thác lợi thế của mình trong kinh doanh.
Để có thể phát huy được thế mạnh của mình, các ngân hàng phải biết tận dụng mọi cơ hội để biến thế mạnh thành lợi thế trong cạnh tranh. Trước những biến