được với các sản phẩm dịch vụ ngân hàng được thuận tiện hơn, giúp ngân hàng mở rộng và chiếm lĩnh thị trường, tạo hình ảnh vị thế của ngân hàng. Từ đó tăng doanh thu, lợi nhuận và tăng năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh cho ngân hàng. Theo quy định trên thì NHTM có vốn điều lệ càng cao và khả năng mở rộng vốn chủ sở hữu lớn thì số lượng mạng lưới mở càng nhiều và ngược lại.
Ngoài ra, nếu ngân hàng có tỷ lệ an toàn vốn cao sẽ cho phép đầu tư vào những lĩnh vực tương đối rủi ro để thoả mãn nhu cầu sinh lời và an toàn.
Khả năng mở rộng vốn chủ sở hữu lệ thuộc vào triển vọng tăng vốn để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh doanh, tăng năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Quy mô vốn chủ sở hữu thường được tính toán theo quy ước quốc tế.
Bảo đảm an toàn và phát triển vốn là nguyên tắc cơ bản và xuyên suốt trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Để đảm bảo an toàn cho phần tài sản có chứa đựng rủi ro, ngân hàng cần duy trì một mức vốn tự có cần thiết được đo bằng tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu. Theo quy định của hiệp ước BASEL và theo quy định tại thông tư 13/2010/TT- NHNN, hệ số an toàn vốn (viết tắt là CAR: Capital Adequacy Ratio), hệ số này được xác định như sau:
Vốn tự có | |
(1) Tỷ lệ an toàn vốn | = |
riêng lẻ | Tổng tài sản “Có” rủi ro |
Vốn tự có hợp nhất | |
(2) Tỷ lệ an toàn vốn | = |
hợp nhất | Tổng tài sản “Có” rủi ro hợp nhất |
Có thể bạn quan tâm!
- Tổng Quan Về Tình Hình Nghiên Cứu Có Liên Quan Đến Luận Án
- Tổng Quan Về Tài Chính Của Ngân Hàng Thương Mại
- Quan Niệm Về Năng Lực Tài Chính Của Ngân Hàng Thương Mại
- Đánh Giá Năng Lực Tài Chính Của Ngân Hàng Thương Mại Theo Khung An Toàn Camel
- Sự Cần Thiết Phải Nâng Cao Năng Lực Tài Chính Của Ngân Hàng Thương Mại
- Quá Trình Hình Thành Và Phát Triển Của Ngân Hàng Việt Nam
Xem toàn bộ 188 trang tài liệu này.
Trong đó vốn tự có được xác định bằng vốn cấp 1 cộng vốn cấp 2
Vốn cấp 1 là vốn chủ sở hữu chỉ bao gồm: Vốn tự có (vốn góp, vốn cấp), lợi nhuận không chia, thu nhập từ công ty con, tài sản vô hình.
Vốn cấp 2 là vốn được sử dụng ổn định, bao gồm: Các khoản dự phòng tổn thất, các khoản nợ cho phép chuyển thành vốn chủ sở hữu, nợ thứ cấp (nợ có tính chất dài hạn).
Theo Basel II thì CAR phải đạt tối thiểu là 8%; Theo thông tư 13 thì mức CAR quy định ở mức tối thiểu là 9%.
Với những ý nghĩa quan trọng đó có thể nói một ngân hàng có mức vốn chủ sở hữu lớn là yếu tố đảm bảo cho ngân hàng hoạt động an toàn, đồng thời thể hiện sức mạnh tài chính của bản thân ngân hàng.
1.2.2.2. Nhóm chỉ tiêu về qui mô và chất lượng tài sản
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Vì vậy để tăng trưởng tổng tài sản sẽ không chỉ phụ thuộc vào sự tăng trưởng của tài sản có mà còn phụ thuộc vào sự tăng trưởng của tài sản nợ của ngân hàng.
Tài sản
Nội dung hoạt động chủ yếu của một ngân hàng thể hiện ở phía tài sản. Quy mô, cơ cấu và chất lượng tài sản có sẽ quyết định đến sự tồn tại và phát triển của NHTM. Tài sản có bao gồm tài sản sinh lời (chiếm từ 80-90% tổng tài sản có) và tài sản không sinh lời (chiếm từ 10-20% tổng tài sản có). Khi nói đến tăng trưởng của tổng tài sản là nói đến qui mô của hoạt động tín dụng và hoạt động đầu tư. Chất lượng tài sản là một chỉ tiêu tổng hợp nói lên khả năng bền vững về tài chính, năng lực quản lý của một NHTM. Đánh giá qui mô, chất lượng tài sản được thể hiện qua các chỉ tiêu: Tốc độ tăng trưởng của tổng tài sản, tính đa dạng hoá trong tài sản, tổng dư nợ, tốc độ tăng trưởng của dư nợ, tỷ trọng dư nợ trên tổng tài sản có, tỷ lệ quá hạn, tỷ lệ nợ xấu, tình hình đảm bảo tiền vay…
Bên cạnh hoạt động tín dụng, hoạt động đầu tư cũng góp phần tăng qui mô tổng tài sản của ngân hàng. Các khoản đầu tư trên bảng cân đối kế toán gồm các khoản mục: chứng khoán kinh doanh, chứng khoán đầu tư và góp vốn đầu tư dài hạn. Hoạt động đầu tư được đánh giá thông qua các chỉ tiêu như: qui mô, tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ dự phòng giảm giá chứng khoán…
Trong điều kiện hội nhập quốc tế, các yếu tố về biến động chính trị, sự thay đổi của chính sách và luật pháp của nước ngoài, sự biến động của các đồng tiền quốc gia… sẽ ảnh hưởng đến tình hình sử dụng tài sản ở nước ngoài, mối tương quan giữa tài sản nước ngoài và tài sản ngoại tệ trong tổng tài sản của ngân hàng.
Nguồn vốn
Khi qui mô huy động vốn càng tăng cũng làm tăng tổng tài sản. Qui mô, chất lượng nguồn vốn được thể hiện ở tổng nguồn vốn mà ngân hàng huy động được với chí phí thấp, tính ổn định cao và có cơ cấu hợp lý, đáp ứng được yêu cầu về cho vay, đầu tư. Nâng cao
chất lượng nguồn vốn có thể hiểu là các hoạt động liên quan đến việc cung cấp cho các nhu cầu về tín dụng, đầu tư, thanh khoản với các nguồn vốn phù hợp về kỳ hạn và lãi suất. Điều này đòi hỏi ngân hàng phải cân nhắc các rủi ro, sự ổn định của nguồn vốn để có thể đầu tư vào các dự án có thời gian dài cũng như sự chênh lệch giữa chi phí vay vốn với mức lợi nhuận có thể thu được khi vốn được đầu tư vào tín dụng và giấy tờ có giá…Các chỉ tiêu để đánh giá qui mô, chất lượng nguồn vốn như: Tổng nguồn vốn, tốc độ tăng trưởng nguồn vốn, cơ cấu nguồn vốn, thị phần huy động vốn, tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn trên tài sản ngắn hạn, lãi suất huy động bình quân…
Muốn tăng trưởng tổng tài sản bền vững đòi hỏi phải nghiên cứu mối tương quan giữa cơ cấu tài sản và nguồn vốn. Qua mối tương quan này sẽ đánh giá được tính tối ưu trong cơ cấu tài sản - nguồn vốn, khả năng phản ứng của ngân hàng trước những hiện tượng bất thường của môi trường kinh doanh và đáp ứng yêu cầu rút tiền của công chúng. Sự phối hợp hiệu quả sẽ giúp ngân hàng tối đa hoá thu nhập đồng thời kiểm soát chặt chẽ các rủi ro.
1.2.2.3. Khả năng sinh lời cao và ổn định
Khả năng sinh lời phản ánh kết quả hoạt động, đánh giá hiệu quả kinh doanh và mức độ phát triển của một NHTM. Đứng trên góc độ từ NHTM, thì một NHTM có khả năng sinh lời cao sẽ có khả năng tích luỹ cao, sẽ có điều kiện trang bị, đầu tư công nghệ, từ đó nâng cao chất lượng dịch vụ thu hút khách hàng; mặt khác đứng trên góc độ nhà đầu tư, người gửi tiền sẽ quyết định giao dịch khi nhìn thấy NHTM đó có thể an toàn do có thể bù đắp rủi ro, từ đó tạo điều kiện tăng trưởng tổng tài sản.
Theo thông lệ quốc tế người ta thường đo lường khả năng sinh lời của NHTM bằng các chỉ tiêu định lượng: giá trị tuyệt đối của lợi nhuận sau thuế, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận, cơ cấu của lợi nhuận (cho biết lợi nhuận được hình thành từ nguồn nào) và đặc biệt là các chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuận ròng trên vốn tự có (ROE), lợi nhuận ròng trên tổng tài sản (ROA), thu nhập lãi cận biên (NIM)…
(1) Tỷ lệ thu nhập/tổng tài sản có (ROA – Return on Assets)
ROA (%) | = | x 100 |
Tổng tài sản có |
Tỷ lệ sinh lời trên tổng tài sản (ROA) thể hiện khả năng của đơn vị trong việc sử dụng các tài sản của mình để tạo ra lợi nhuận. ROA càng cao thể hiện khả năng quản lý của Ban quản trị ngân hàng trong việc chuyển tài sản của ngân hàng thành lợi nhuận ròng. Thể hiện hiệu quả kinh doanh cao của ngân hàng với cơ cấu tài sản sinh lời và không sinh lời khá hợp lý. Tuy nhiên, ROA quá cao không phải là tín hiệu tốt đối với các ngân hàng vì trong tình huống đó, ngân hàng đang rơi vào tình trạng rủi ro cao do lợi nhuận kỳ vọng và rủi ro có mối quan hệ thuận chiều.
(2) Tỷ lệ thu nhập/Vốn chủ sở hữu (ROE – Return on Equity)
Tỷ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu thể hiện 1 đồng vốn chủ sở hữu của ngân hàng sẽ mang về bao nhiêu đồng lợi nhuận trong một thời gian nhất định (thường là 1 năm).
ROE (%) | = | x 100 |
Vốn chủ sở hữu |
Nói cách khác, ROE đánh giá lợi ích mà cổ đông (chủ sở hữu ngân hàng) có được từ nguồn vốn bỏ ra. Tỷ lệ này càng cao thể hiện việc sử dụng vốn của ngân hàng trong đầu tư, cho vay càng hiệu quả. Các nhà quản trị ngân hàng luôn muốn tăng ROE để thoả mãn yêu cầu của cổ đông thông qua nhiều biện pháp như kiểm soát rủi ro có hiệu quả, hạn chế khoản vay xấu…
Các chỉ tiêu ROA, ROE thường được các nhà quản trị, các nhà đầu tư quan tâm, sử dụng khi đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, chúng thể hiện khả năng, thời hạn thu hồi vốn đầu tư của chủ sở hữu. Hiệu quả sử dụng vốn và tài sản của ngân hàng càng cao là cơ sở để ngân hàng tăng quy mô vốn cũng như năng lực tài chính của mình.
(3) Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên ròng (NIM)
NIM (%) | = | x 100 | |
Tổng tài sản có sinh lời (hoặc tổng tài sản có) |
Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên ròng (NIM) đo lường khả năng sinh lời cơ bản từ hoạt động cho vay của đơn vị theo mức tài sản có sinh lời bình quân.
(4) Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên ròng (NNIM)
NNIM (%) | = | x 100 |
Tổng tài sản có |
Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên ròng đo lường khả năng sinh lời của các sản phẩm phi tín dụng của đơn vị theo mức tài sản có sinh lời bình quân.
(5) Hệ số thu nhập hoạt động cận biên
Tổng doanh thu hoạt động – Tổng chi phí hoạt động | ||
hoạt động | = | x 100 |
cận biên (%) | Tổng tài sản có |
Sử dụng các chỉ tiêu trên đây để so sánh giữa các thời kỳ, so sánh với các NHTM khác, so sánh với mức bình quân hoặc so sánh với dự kiến sẽ cho thấy khả năng sinh lời cao hay thấp, năng lực tài chính ở mức độ nào. Khả năng sinh lời phụ thuộc rất nhiều vào mức độ nợ xấu của NHTM theo chiều hướng nghịch.
1.2.2.4. Đảm bảo khả năng thanh khoản
Chất lượng hoạt động kinh doanh và năng lực tài chính của một NHTM không chỉ được thể hiện ở chất lượng tài sản có sinh lời, khả năng quản lý và kiểm soát được các rủi ro trong hoạt động tín dụng, chất lượng nguồn vốn, mà còn được biểu hiện thông qua khả năng đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng đó. Cụ thể:
- Đảm bảo khả năng thanh khoản: Khả năng thanh khoản của một ngân hàng là khả năng sẵn sàng chi trả, thanh toán cho khách hàng và bù đắp những tổn thất khi xảy ra rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Đây là một tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá chất lượng và sự an toàn trong quá trình hoạt động của một ngân hàng. Khả năng thanh khoản được đo lường thông qua các chỉ tiêu khả năng thanh khoản trên tổng tài sản có, trên tài sản ngắn hạn, trên tài sản thanh toán ngay.
Rủi ro thanh khoản xảy ra khi NHTM không đáp ứng được nhu cầu cho vay và đầu tư hoặc không đáp ứng được khả năng thanh toán của khách hàng. Rủi ro này xuất phát từ chênh lệch kỳ hạn huy động vốn và sử dụng vốn, dùng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn quá nhiều, không cân đối được kỳ hạn thu hồi vốn đầu tư với kỳ hạn phải thanh toán, trong khi nhu cầu thanh toán của khách hàng không thể trì hoãn được. Nếu NHTM lâm vào tình trạng này mà không xử lý được kịp thời sẽ rất nguy hiểm, làm mất
lòng tin của khách hàng sẽ dẫn đến rút tiền ồ ạt làm tình trạng mất khả năng thanh toán của ngân hàng càng trầm trọng hơn, có thể dẫn tới phá sản ngân hàng.
Khả năng thanh khoản của một ngân hàng thể hiện qua chỉ tiêu định lượng: Khả năng thanh toán tức thì, khả năng thanh toán nhanh, chỉ tiêu thanh khoản (cho biết tỷ trọng tài sản thanh khoản (dưới 1 năm) trên tổng tài sản), và chỉ tiêu đánh giá định tính về năng lực quản lý thanh khoản của NHTM và đặc biệt là khả năng quản lý rủi ro thanh khoản của ngân hàng đó. Theo thông lệ quốc tế, chỉ tiêu thanh khoản đạt 30% được coi là an toàn, đảm bảo cho ngân hàng có thể đáp ứng được nhu cầu rút tiền hay thanh toán tức thời với số lượng lớn.
- Khả năng bù đắp khi xảy ra rủi ro: Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến trong quá trình hoạt động kinh doanh, gây nên những thiệt hại cho ngân hàng.
Khả năng bù đắp rủi ro là khả năng tài chính bù đắp tổn thất khi xảy ra rủi ro, NHTM thực hiện trích DPRR vào chi phí hoạt động thông qua việc trích lập dự phòng cho phần giá trị tài sản "Có" có khả năng không thể thu hồi được.
Dự phòng rủi ro là các khoản dự trữ được trích lập dự phòng để bù đắp cho những rủi ro mà NHTM có thể gặp phải trong tương lai. Vì vốn tự có của ngân hàng chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ so với tổng nguồn vốn của ngân hàng, do vậy nguồn DPRR của ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an toàn và vững chắc cho hoạt động của ngân hàng, là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá khả năng chống đỡ rủi ro, khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
Việc trích lập và sử dụng DPRR ở mỗi nước có qui định khác nhau. Tuy nhiên việc trích lập DPRR đều được trích lập từ chi phí hoặc trích lập từ lợi nhuận sau thuế hoặc bằng cả hai phương pháp sau:
- Trích lập DPRR vào chi phí hoạt động cho phần giá trị tài sản “Có” có khả năng thu của ngân hàng.
- Trích lập qũy dự phòng tài chính từ lợi nhuận sau thuế bằng 10% lợi nhuận còn lại sau khi đã trích lập qũy dự trữ bổ sung vốn điều lệ, bù khoản lỗ của các năm trước, trừ các khoản tiền phạt vi phạm pháp luật. Số dư được trích của qũy này không vượt quá 25% vốn điều lệ của NHTM. Quỹ này được dùng để bù đắp phần còn lại của những tổn thất, thiệt hại về tài sản xảy ra trong quá trình kinh doanh sau khi đã được bù đắp bằng tiền bồi
thường của các tổ chức, cá nhân gây ra tổn thất, của tổ chức bảo hiểm và sử dụng dự phòng trích lập trong chi phí.
- Ngoài ra, NHTM được trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho, giảm giá chứng khoán vào chi phí theo qui.
Quy mô DPRR đến mức độ nào phụ thuộc vào quy mô nợ xấu. Nếu nợ xấu tăng lên thì DPRR cũng phải tăng lên để bù đắp rủi ro, có nghĩa là khả năng tài chính cho phép sử dụng để bù đắp tổn thất có thể xẩy ra. Ngược lại, nợ xấu tăng (hoặc không tăng) nhưng dự phòng không đủ để bù đắp có nghĩa là tình trạng tài chính xấu và năng lực bù đắp bởi chi phí bị hạn hẹp.
Mức độ DPRR được tính:
Mức độ DPRR (%) | = | X 100 |
Tổng số nợ xấu |
1.2.2.5. Chất lượng điều hành quản lý trong quá trình kinh doanh ngân hàng
Một yếu tố quyết định hiệu quả kinh doanh và sự an toàn của ngân hàng là năng lực và chất lượng quản lý. Quản lý ngân hàng là tạo ra hệ thống các hoạt động thống nhất, phối hợp và liên kết các quá trình lao động của các cán bộ nhân viên từ các phòng ban đến hội đồng quản trị trong ngân hàng, nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh ở mỗi thời kỳ đã xác định, trên cơ sở giảm thiểu các chi phí về nguồn lực. Nói đến chất lượng và năng lực quản lý là nói đến yếu tố con người trong bộ máy quản lý và hoạt động, thể hiện ở các nội dung: (i) Đề ra được các chính sách kinh doanh đúng đắn và có hiệu quả; (ii) Xây dựng các thủ tục quản lý, điều hành các quy trình nghiệp vụ hợp lý, sát thực và đúng pháp luật; (iii) Tạo lập được cơ cấu tổ chức hợp lý, vận hành hiệu quả;
(iv) Giảm thiểu rủi ro về đạo đức trong hệ thống quản lý.
Ngoài ra, chất lượng và năng lực quản lý còn thể hiện ở khả năng nắm bắt kịp thời những tình huống bất lợi, nhận biết sớm các nguy cơ rủi ro tiềm ẩn đe doạ sự an toàn của ngân hàng để đưa ra những biện pháp đối phó kịp thời. Chất lượng quản lý cuối cùng được phản ánh ở tình hình tuân thủ đầy đủ luật pháp cũng như các quy chế hoạt động, hiệu quả kinh doanh và mức lợi nhuận thu được tăng lên, duy trì được khả
năng thanh toán, sức cạnh tranh và vị thế của ngân hàng trên thị trường ngày một nâng cao, ngân hàng luôn phát triển bền vững trước những biến động trong và ngoài nước.
1.3. ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC TÀI CHÍNH CỦA NHTM
1.3.1. Đánh giá năng lực tài chính của NHTM Theo tiêu chuẩn Moody’s
1.3.1.1. Vài nét về tổ chức xếp hạng Moody’s
Từ công ty xếp hạng đầu tiên do John Moody sáng lập năm 1909, trên thế giới hiện có khá nhiều công ty cung cấp dịch vụ này và ba tên tuổi lớn nhất trong số đó là Moody’s, Standard&Poors và Fitch. Moody’s là công ty được niêm yết độc lập trên Thị trường chứng khoán New York. Hiện nay tổ chức này có 2.500 nhân viên với mạng lưới văn phòng trên khắp thế giới. Công ty đã tiến hành xếp hạng hơn 750 định chế tài chính chỉ riêng tại khu vực châu Á còn trên phạm vi toàn cầu là gần 1.000 ngân hàng.
Việc đánh giá, xếp hạng các NHTM của các tổ chức xếp hạng độc lập giúp các ngân hàng thấy rõ hơn những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của mình. Với cùng một hệ thống xếp hạng, các thang bậc xếp hạng thống nhất các ngân hàng có thể thấy rõ hơn vị trí của mình trên thị trường, khả năng của mình so với các đối thủ cạnh tranh, từ đó đưa ra được những giải pháp phù hợp. Quan trọng hơn hết, việc đánh giá, xếp hạng tín nhiệm NHTM là một trong những biện pháp góp phần làm minh bạch thị trường tài chính và để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tài chính ngân hàng vì trước hết đối tượng của việc đánh giá, xếp hạng này là đo lường những rủi ro có thể xảy ra đối với hoạt động của ngân hàng.
Xếp hạng tín nhiệm ngân hàng của Moody’s bao gồm hai nhóm xếp hạng chính: Xếp hạng năng lực tài chính của Ngân hàng và xếp hạng tiền gửi ngân hàng. Trong đó, xếp hạng Năng lực tài chính (BFRS) phản ánh mức độ an toàn và sự lành mạnh của ngân hàng, nhưng ngoại trừ một số rủi ro tín dụng nhất định từ bên ngoài và các nhân tố hỗ trợ tín dụng.
1.3.1.2. Chuẩn mực đánh giá năng lực tài chính của Moody’s Thứ 1: Qui mô vốn chủ sở hữu
Để thích ứng với xu thế hội nhập quốc tế, để tạo điều kiện có thể thu được lợi nhuận đạt mức trên trung bình của ngành đòi hỏi vốn chủ sở hữu của ngân hàng phải tương đương với mức vốn chủ sở hữu của một ngân hàng khá trong khu vực.