Tuy nhiên, để đánh giá một cách đầy đủ năng lực tài chính của một NHTM cần xem xét kết hợp với mức độ rủi ro của NHTM.
Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên (NOM).
Tổng thu nhập phi lãi - Tổng chi phí phi lãi
NOM (%) =
X 100
Tổng tài sản
Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên (NOM) đo lường khả năng sinh lời từ các hoạt động phi tín dụng theo mức tài sản của NHTM. Tỷ lệ này càng cao càng tốt khi đánh giá năng lực tài chính của ngân hàng, vì thu nhập từ hoạt động phi tín dụng thường mang tính bền vững đối với một NHTM.
1.2.3. Sự cần thiết nâng cao năng lực tài chính của ngân hàng thương mại
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Niệm Và Đặc Điểm Kinh Doanh Của Ngân Hàng Thương Mại
- Năng Lực Tài Chính Của Ngân Hàng Thương Mại. 1.2.1.khái Niệm Năng Lực Tài Chính Của Ngân Hàng Thương Mại.
- Nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam hiện nay - 6
- Kinh Nghiệm Nâng Cao Năng Lực Tài Chính Của Ngân Hàng Thương Mại Trên Thế Giới Và Bài Học Kinh Nghiệm Đối Với Các Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Việt
- Nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam hiện nay - 9
- Khái Quát Về Hệ Thống Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Việt Nam.
Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.
Năng lực tài chính của một NHTM đóng vai trò vô cùng quan trọng, nó thể hiện sức mạnh tài chính của một NHTM. Năng lực tài chính của một NHTM càng được vững mạnh thì khả năng chống đỡ rủi ro trong hoạt động ngân hàng càng gia tăng, nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM trên thị trường. Do vậy, năng lực tài chính của NHTM phải không ngừng được nâng cao là yêu cầu đặt ra đối với bất cứ một NHTM nào.
Nâng cao có nghĩa là làm tăng thêm [38] hay làm tốt thêm [63] .Vậy có thể hiểu nâng cao năng lực tài chính NHTM có nghĩa là “làm tăng thêm hay làm tốt hơn khả năng tạo lập nguồn vốn và sử dụng vốn để đáp ứng tối đa nhu cầu trong quá trình hoạt động kinh doanh của NHTM nhằm thực hiện mục tiêu đặt ra của NHTM”.
Một NHTM có năng lực tài chính tốt phải là NHTM luôn duy trì được hoạt động bình thường và phát triển một cách ổn định, bền vững trước những tác động về điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội ở trong nước và trên thế giới. NHTM có khả năng cung cấp tín dụng có hiệu quả và các dịch vụ tài chính cho nền kinh tế. NHTM luôn đáp ứng đầy đủ yêu cầu khách hàng về vốn và các dịch vụ ngân hàng phù hợp với quá trình phát triển kinh tế, xã hội trong nước và thế giới. NHTM còn phải bảo đảm được sự tồn tại và phát triển của mình một cách an toàn, không xảy ra những đổ vỡ hay phá sản.Việc nâng cao năng lực tài chính của các NHTM đem lại ý nghĩa hết sức quan trọng, cụ thể là:
1.2.3.1. Đối với các ngân hàng thương mại.
Thứ nhất: Nâng cao năng lực tài chính góp phần gia tăng năng lực cạnh tranh của NHTM.
Hoạt động trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, đòi hỏi các NHTM phải có tiềm lực tài chính vững mạnh. Nâng cao năng lực tài chính giúp các NHTM đủ “sức chống đỡ”với những áp lực cạnh tranh trên thị trường, tạo điều kiện cần và đủ để các NHTM có thể mở rộng cũng như nâng cao chất lượng khả năng tạo lập và sử dụng vốn của mình. Trên một thị trường cạnh tranh, NHTM nào có năng lực tài chính tốt hơn cũng sẽ có lợi thế hơn trong việc tạo lập nguồn vốn của mình, từ đó giúp các NHTM mở rộng cho vay và đầu tư. Mặt khác, nâng cao năng lực tài chính còn giúp các NHTM có khả năng hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, một trong những điều kiện quan trọng nhất để các NHTM có thể cung cấp những dịch vụ ngân hàng một cách hoàn hảo, tạo sự khác biệt với các NHTM khác. Đây chính là yếu tố thể hiện lợi thế của NHTM trong quá trình cạnh tranh, thu hút khách hàng. Bởi trong điều kiện phát triển nền kinh tế theo xu hướng mở cửa, những yêu cầu về chất lượng dịch vụ ngân hàng ngày càng gia tăng, sản phẩm dịch vụ đa dạng với giá cả hợp lý. Để đáp ứng yêu cầu này, đòi hỏi các NHTM phải có sự đầu tư thích đáng phát triển các sản phẩm dịch vụ mới để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Và chỉ có những ngân hàng có năng lực tài chính tốt mới có điều kiện để thực hiện yêu cầu này. Đồng thời, nâng cao năng lực tài chính cũng đồng nghĩa với việc nâng cao giá trị thị trường của NHTM, một mặt tránh được nguy cơ “thôn tính”, mặt khác thu hút vốn của các nhà đầu tư đối với ngân hàng góp phần củng cố thêm sức mạnh tài chính của NHTM.
Thứ hai: Nâng cao năng lực tài chính góp phần thực hiện mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận trong kinh doanh của NHTM.
Xét cho đến cùng, mục tiêu hoạt động của NHTM là lợi nhuận, để thực hiện được mục tiêu nay đòi hỏi các NHTM phải tạo lập được nguồn vốn đủ lớn, với chi phí thấp nhất để đáp ứng nhu cầu mở rộng qui mô đầu tư và cho vay nhằm tăng thu nhập cho ngân hàng. Mặt khác, nâng cao năng lực tài chính hay nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, góp phần phân bổ nguồn vốn tạo lập được một cách hiệu quả nhất, nâng cao được chất lượng tín dụng, đảm bảo được nguồn thu từ hoạt động tín dụng cho ngân hàng. Hơn nữa, bên cạnh việc gia tăng lợi nhuận từ hoạt động tín dụng,
những NHTM có năng lực tài chính tốt sẽ gia tăng được các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đáp ứng nhu cầu của khách hàng, từ đó đảm bảo được nguồn thu có tính ổn định cho NHTM.
Nâng cao năng lực tài chính còn giúp các NHTM thực hiện đa năng hóa hoạt động để tìm kiếm lợi nhuận. Trên thực tế, những NHTM có tiềm lực tài chính mạnh thường tham gia vào nhiều lĩnh vực kinh doanh như chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh vàng… góp phần gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng.
Thứ ba: Nâng cao năng lực tài chính nhằm tăng cường khả năng chống đỡ rủi ro, đảm bảo an toàn hoạt động của NHTM.
Vốn được coi là tấm đệm chống đỡ những rủi ro, đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh. Vốn lớn sẽ tạo ra được uy tín lớn cho ngân hàng trên thị trường, tạo điều kiện mở rộng quy mô và phát triển. Nâng cao năng lực tài chính sẽ giúp ngân hàng thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa rủi ro, đảm bảo an toàn vốn trong hoạt động, hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại có thể xảy ra đối với ngân hàng. Trong xu thế tự do hóa tài chính trong ngân hàng ngày càng sâu rộng, các NHTM không chỉ cạnh tranh với các ngân hàng trong nước mà còn phải cạnh tranh với các ngân hàng “ngoại”có nhiều lợi thế. Do đó, nếu mức vốn quá nhỏ bé sẽ làm cho các NHTM khó có thể chống đỡ trước những áp lực cạnh tranh của thị trường. Hơn nữa, vốn của ngân hàng lớn sẽ giúp cho ngân hàng có đủ năng lực tài chính kinh doanh đa năng trên thị trường không chỉ cho vay mà còn đầu tư trên thị trường tiền tệ, liên doanh, liên kết,... Và chính sự đa dạng hoá hoạt động sẽ góp phần phân tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh, tăng cường an toàn hoạt hoạt động của NHTM.
Thứ tư: Nâng cao năng lực tài chính đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của NHTM.
Hội nhập quốc tế về tài chính ngân hàng là yêu cầu đối với các nước đang phát triển cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Hội nhập quốc tế nói chung và tài chính ngân hàng nói riêng đều mang lại những lợi ích và rủi ro. Những lợi thế mà NHTM có thể có được từ quá trình toàn cầu hóa như có thể tiếp cận được các nguồn vốn đầu tư, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ các NHTM ở các nước có trình độ phát triển cao hơn. Song song với những lợi thế có được của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các NHTM cũng sẽ gặp không ít áp lực khi phải cạnh tranh với những
ngân hàng nước ngoài có trình độ quản lý và công nghệ cao hơn. Với những ngân hàng ngoại có năng lực tài chính mạnh họ có thể chấp nhận lỗ để gây sức ép với các ngân hàng trong nước, vì vậy nếu năng lực tài chính không tốt, quy mô vốn chủ sở hữu thấp làm cho ngân hàng khó có thể trụ vững.
1.2.3.2. Đối với nền kinh tế.
Thứ nhất: Nâng cao năng lực tài chính của NHTM góp phần đáp ứng nhu cầu vốn phù hợp với yêu cầu tăng trưởng của nền kinh tế.
Các NHTM được coi là hệ thống huyết mạch của nền kinh tế, vì vậy sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào vai trò điều chuyển vốn của hệ thống NHTM. Một hệ thống NH có năng lực tài chính tốt mới có thể tiếp nhận và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực tài chính trong nền kinh tế, tạo điều kiện cho các nước đang phát triển đủ nguồn lực để đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển của cá nhân, xă hội và của cả nền kinh tế. Mặt khác, với vai trò chuyển tải nội dung chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương, nên chỉ khi các NHTM có năng lực tài chính vững mạnh thì những tín hiệu điều hành của NHTW mới trở nên chuẩn xác. Từ đó góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai: Nâng cao năng lực tài chính của NHTM góp phần đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.
Hệ thống NHTM là huyết mạch của hệ thống tài chính quốc gia bởi nó là kênh dẫn vốn chính trong nền kinh tế. Chính vì vậy, bất kỳ những tổn thương nào của hệ thống NHTM đều có thể gây nên những hệ lụy xấu đối với an ninh tài chính quốc gia. Thực tế trên thế giới cho thấy, một cuộc khủng hoảng kinh tế chưa chắc đã dẫn đến một cuộc khủng hoảng ngân hàng, nhưng bất kỳ một cuộc khủng hoảng Ngân hàng nào đều có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính. Cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu trong thời gian gần đây bắt đầu từ Mỹ có lý do xuất phát từ những rủi ro hoạt động của chính các NHTM là một ví dụ rất điển hình. Nâng cao năng lực tài chính, không chỉ đơn thuần từ vai trò dẫn vốn của hệ thống ngân hàng đối với nền kinh tế, mà nó còn tạo nên những nền móng vững chắc cho việc xây dựng một hệ thống an ninh tài chính quốc gia. Mặt khác, với vai trò trung gian thanh toán, mọi hoạt động trong nền kinh tế được minh bạch hơn. Chính vì vậy,với hệ thống NHTM có năng lực tài chính tốt sẽ góp phần mở rộng và nâng cao chất lượng các dịch vụ
thanh toán để đáp ứng cho nhu cầu của mọi chủ thể trong nền kinh tế. Điều này có ý nghĩa quan trọng xóa bỏ dần nền kinh tế tiền mặt, chống nạn “rửa tiền”cũng như đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.
Thứ ba: Nâng cao năng lực tài chính NHTM đảm bảo yêu cầu tự chủ của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cạnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng là một thách thức lớn với nhiều nền kinh tế. Để làm được điều này, một hệ thống NHTM với năng lực tài chính vững mạnh là một trong những giải pháp hữu hiệu. Một nền kinh tế tự chủ đòi hỏi phải phát huy cao độ nội lực của nền kinh tế bên cạnh việc tranh thủ ngoại lực. Với khả năng tạo lập vốn, hệ thống các NHTM sẽ huy động tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi của nền kinh tế đáp ứng cho nhu cầu đầu tư trong nước. Chức năng này được các NHTM thực hiện càng tốt bao nhiêu thì áp lực chịu phụ thuộc vào vốn ngoại càng giảm thấp. Chính vì vậy, những áp lực về các điều kiện gắn liền với việc sử dụng nguồn vốn này sẽ giảm đi, nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế. Việc tự chủ được nguồn vốn của nền kinh tế dựa vào hệ thống ngân hàng còn giảm được những cú sốc tỷ giá hay tình trạng nhập khẩu lạm phát, giảm những bất ổn đối với một nền kinh tế tự chủ.
1.2.4. Phương pháp đánh giá năng lực tài chính của ngân hàng thương mại
1.2.4.1. Phương pháp so sánh
So sánh là phương pháp được sử dụng khá phổ biến trong phân tích kinh tế nói chung cũng như phân tích tài chính. Thông qua việc so sánh để có thể đánh giá xu hướng phát triển, vị thế cạnh tranh trên thị trường cũng như mức độ đáp ứng với những yêu cầu về đảm bảo an toàn hoạt động theo khuyến cáo thông lệ quốc tế. Việc so sánh có thể căn cứ vào thời gian, không gian hoặc chuẩn mực chung.
So sánh về thời gian. Năng lực tài chính thể hiện sức mạnh tài chính của mỗi ngân hàng trong quá trình cạnh tranh. Với áp lực cạnh tranh, đòi hỏi năng lực tài chính của các NHTM không ngừng tăng lên trong xu thế phát triển. Vì vậy, khi đánh giá năng lực tài chính của ngân hàng người ta thường xem xét xu hướng biến động qua các khoảng thời gian. Mặt khác, do mỗi một ngân hàng đều có xuất phát điểm khác nhau khi hình thành, có chiến lược kinh doanh cũng như thị trường mục tiêu không hoàn toàn giống nhau. Do đó, đánh giá năng lực tài chính của các ngân
hàng trên cơ sở so sánh qua các kỳ là phương pháp không thể thiếu khi xem xét năng lực tài chính ngân hàng.
So sánh về không gian. Trong đánh giá năng lực tài chính của ngân hàng, việc sử dụng phương pháp so sánh giữa các ngân hàng có phạm vi và không gian hoạt động khác nhau nhằm mục đích đánh giá được vị thế cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường cũng như mức độ hội nhập kinh tế quốc tế. Khi thị trường dịch vụ tài chính mở cửa, sức ép cạnh tranh giữa các ngân hàng càng lớn, đòi hỏi sự lớn mạnh về năng lực tài chính của các ngân hàng phải “ngang ngửa”với các ngân hàng ngoại cũng như các loại hình ngân hàng khác.
So sánh trên cơ sở các khung an toàn quốc tế .
Hoạt động ngân hàng là một lĩnh vực hoạt động đặc biệt, nó có ảnh hưởng rất lớn đến sự an toàn của an ninh tài chính quốc gia. Điều này đòi hỏi các NHTM phải có một sức mạnh tài chính tối thiểu nhằm chống đỡ rủi ro cũng như an toàn hoạt động. Thực tế trên thế giới có nhiều mô hình được sử dụng để phân tích, đánh giá năng lực hoạt động của các NHTM như CAMELS,Moody’s, trong đó CAMELS là mô hình được sử dụng chủ yếu khi đánh giá năng lực tài chính ngân hàng.
Mô hình CAMELS: Hệ thống phân tích CAMELS được áp dụng nhằm đánh giá độ an toàn, khả năng sinh lời và thanh khoản của Ngân hàng. An toàn được hiểu là khả năng của ngân hàng bù đắp được mọi chi phí và thực hiện được các nghĩa vụ của mình và được đánh giá thông qua đánh giá mức độ đủ vốn, chất lượng tín dụng và chất lượng quản lý. Phân tích theo chỉ tiêu CAMELS dựa trên 6 yếu tố cơ bản được sử dụng để đánh giá hoạt động của một ngân hàng, đó là: Mức độ an toàn vốn, Chất lượng tài sản có, Quản lý, Lợi nhuận, Thanh khoản và Mức độ nhạy cảm thị trường.
C (capital) - Vốn: Vốn chủ sở hữu được coi là tấm đệm chống đỡ rủi ro trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Ngân hàng càng chấp nhận nhiều rủi ro thì càng đòi hỏi phải có nhiều vốn tự có để hỗ trợ hoạt động của Ngân hàng và bù đắp tổn thất tiềm năng liên quan đến mức độ rủi ro cao hơn.
A(Asset Quality) Chất lượng tài sản có
Chất lượng tài sản có là chỉ tiêu tổng hợp nói lên khả năng bền vững về mặt tài chính, khả năng sinh lời, năng lực quản lý và phần lớn rủi ro trong hoạt động kinh doanh tiền tệ. Hầu hết rủi ro trong kinh doanh tiền tệ đều tập trung ở tài sản có.
Chất lượng tài sản có là yếu tố quan trọng có tính quyết định đến kết quả hoạt động cuối cùng của NHTM. Nếu thị trường biết rằng chất lượng tài sản kém thì sẽ tạo áp lực lên trạng thái nguồn vốn ngắn hạn của ngân hàng, và điều này có thể dẫn đến khủng hoảng thanh khoản, hoặc dẫn đến tình trạng đổ xô đi rút tiền ở ngân hàng.
M (management) – Quản lý:
Lý thuyết CAMELS cho rằng khả năng quản lý của mỗi ngân hàng là yếu tố năng động nhất. Nếu khả năng quản lý tốt có thể biến một ngân hàng yếu kém thành một ngân hàng hoạt động tốt hơn và ngược lại. nói đến khả năng quản lý là là yếu tố con người, tổ chức và chính sách. Tất cả quy tụ lại ở năng lực quản lý của ban giám đốc điều hành và biểu hiện chất lượng quản lý bằng hiệu quả trong kinh doanh. Các chỉ tiêu được xem xét như chi phí hoạt động so với thu nhập hay các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh, việc tuân thủ các quy định pháp luật về hoạt động ngân hàng.
E (earnings) – Khả năng sinh lời : Đây là yếu tố quan trọng quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Khả năng sinh lời có thể được đo lường bằng các chỉ số như ROE, ROA.
L(Liquidity). Khả năng thanh toán Là yếu tố quan trọng quyết định đến sự sống còn của một ngân hàng.
S: (Sensitivity to Market Risk).Mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường
Mức độ nhạy cảm với rủi ro thị trường nhằm đo lường mức độ ảnh hưởng của thay đổi về lãi suất và/ hoặc tỷ giá đến giá trị của lợi nhuận hay vốn cổ phần
Chuẩn mực đánh giá năng lực tài chính của Moody’s.
Moody’s là một tổ chức xếp hạng độc lập, xếp hạng tín nhiệm Ngân hàng của moody’s bao gồm hai nhóm xếp hạng chính: Xếp hạng năng lực tài chính của ngân hàng và xếp hạng tiền gửi của ngân hàng. Việc đánh giá năng lực tài chính ngân hàng được xem xét trên một số tiêu chí:
- Quy mô vốn chủ sở hữu: Theo nghiên cứu của tổ chức này, một ngân hàng nên phải có mức vốn chủ sở hữu tối thiểu để tạo bức đệm chống đỡ rủi ro. Khuyến cáo với mức vốn chủ sở hữu của một ngân hàng nên đạt mức khá của một ngân hàng trong khu vực là 1 tỷ USD.
- Chỉ tiêu thanh khoản: Chỉ tiêu này được xác định giữa các tài sản có thời hạn dưới một năm so với tổng tài sản. Tỷ lệ này nên ở mức ngưỡng tối thiểu là 30%.
- Quy mô, chất lượng tài sản và nguồn vốn.
Tốc độ tăng trưởng bình quân nên duy trì là: Tài sản là 25%; Nguồn vốn là 23%; Tín dụng 15%; Đầu tư 31%; CAR 12%; Nợ xấu dưới 2% tổng dư nợ; ROA lớn hơn hoặc bằng 1%; ROE trong khoảng từ 12%- 15%; Cơ cấu dư nợ/ Tổng tài sản có nhỏ hơn hoặc bằng 60%.
1.2.4.2. Phương pháp chấm điểm.
Theo quyết định 06/2008/QĐ- NHNN về xếp loại NHTMCP, các Ngân hàng được tính điểm trên cơ sở các nhóm chỉ tiêu như: Vốn tự có; Chất lượng tài sản; Năng lực quản trị; Kết quả hoạt động kinh doanh; Khả năng thanh khoản. Mỗi chỉ tiêu được quy định cho một mức điểm tối đa và tối thiểu tương ứng với từng trường hợp cụ thể. Cơ sở xếp loại là tổng hợp điểm trên 5 chỉ tiêu được chấm. Các khoảng điểm được quy định đối với mỗi hạng xếp loại từ loại A, loại B, loại C và thấp nhất là loại D.
1.2.5. Những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tài chính ngân hàng thương mại
Như đã phân tích, năng lực tài chính là yếu tố quan trọng hàng đầu thể hiện năng lực cạnh tranh của NHTM. Nó vừa được coi là yếu tố thể hiện sức mạnh tài chính của ngân hàng, vừa là kết quả bởi các điều kiện chủ quan hay khách quan của NHTM. Nâng cao năng lực tài chính luôn là xu hướng phát triển của các NHTM, với mỗi một NHTM để thực hiện được yêu cầu nâng cao năng lực tài chính thì việc xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tài chính có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó giúp NHTM khai thác có hiệu quả những yếu tố tác động tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực đến sức mạnh tài chính của mình.
1.2.5.1.Nhóm nhân tố thuộc môi trường vĩ mô
Là một chủ thể kinh doanh trên thị trường, các doanh nghiệp nói chung cũng như các NHTM nói riêng luôn chịu những tác động của môi trường vĩ mô. Sự tác động này cũng có thể theo chiều hướng có lợi hoặc chiều hướng bất lợi đến năng lực tài chính của NHTM. Môi trường vĩ mô của NHTM là nơi mà NHTM bắt đầu tìm kiếm những cơ hội cũng như những mối đe dọa có thể xuất hiện. Nó bao gồm tất cả những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động và kết quả thực hiện của NHTM bao gồm:
- Môi trường chính trị- Xã hội.