Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 48


Cầm đường, dạo khúc đàn không tiếng, Đào quận, vun bồi tươi sắc đông.

Gặp gỡ cần chi rườm chuyện nói, Mà lòng ai cũng thấu vô cùng.


阮素如曰造語新奇與不遇者增色暗聲二字下得切實險怪

Nguyễn Tố Như bàn: Lời lẽ mới mẻ tân kỳ, với người chưa từng gặp qua mà hạ hai chữ “tăng sắc, ám thanh” (thêm sức sống, tiếng vang thầm) thực là chân thành mà hiểm quái.


45.題扇贈湘潭陵豫知縣江關歷歷泛星槎

偶向湘潭覩物華風惹琹聲堂上曲園留春色縣中花北南分土雖千里今古斯文亦一家半面莫嫌相識淺時牽清夢到天涯

ĐỀ PHIẾN TẶNG TƯƠNG ĐÀM LĂNG DỰ TRI HUYỆN

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 409 trang tài liệu này.

Giang quan lịch lịch phiếm tinh tra, Ngẫu hướng Tương Đàm đổ vật hoa.

Phong nhạ cầm thanh đường thượng khúc, Viên lưu xuân sắc huyện trung hoa.

Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ - 48

Bắc nam phân thổ tuy thiên lý, Kim cổ tư văn diệc nhất gia.

Bán diện mạc hiềm tương thức thiển, Thời khiên thanh mộng đáo thiên nha. Dịch nghĩa:

ĐỀ QUẠT TẶNG TRI HUYỆN LĂNG DƯ Ở TƯƠNG ĐÀM

Thuyền sứ bồng bềnh trải khắp núi non sông hồ, Chợt vào Tương Đàm xem cảnh sắc phồn hoa. Gió lồng khúc nhạc trên công đường,

Bông hoa trong vườn nhà còn lưu giữ vẻ xuân khắp huyện.

Đất đai chia nam bắc tuy cách xa ngàn dặm, Nhưng văn hoá xưa nay cũng chỉ coi là một nhà. Gặp gỡ nhau trong vội vàng, quen biết nhau cũng chẳng mấy,

Mà lòng thường mơ giấc mơ đẹp, dạo khắp vùng trời.

Dịch thơ:

Một mảng bè sao, sông núi qua, Tương Đàm chợt đến, cảnh phồn hoa. Gió đưa khúc nhạc tràn quan xá,

Hoa giữ màu xuân khắp huyện nha.

Mà mộng trong lành đến biển xa.

阮素如曰有風態可詠無情生情落句有味

Nguyễn Tố Như bàn: Có phong thái, đáng ngâm vịnh, không có tình mà lại sinh tình, câu cuối có dư vị.

47.登拱極樓 1

長沙湘水轉滄茫拱極樓頭望岳陽漢傅文章遺古樹楚臣忠憤逐蒼浪詩臨畫檻雲隨步酌就花欄雨洗腸淡泊可憐禪味冷一甌山茖客情芳

ĐĂNG CỦNG CỰC LÂU

Trường Sa Tương Thuỵ chuyển thương mang, Củng Cực lâu đầu vọng Nhạc Dương.

Hán phó văn chương di cổ thụ,

Sở thần trung phẫn trục thương lang. Thi lâm hoạ hạm vân tuỳ bộ,

Chước tựu hoa lan vũ tẩy trường. Đạm bạc khả liên thiền vị lãnh,

Nhất âu sơn mính khách tình phương.

Dịch nghĩa:

LÊN LẦU CỦNG CỰC

Dòng sông Tương ở Trường Sa xoay chuyển mênh mang,

Nơi lầu Củng Cực ngóng nhìn Nhạc Dương.

Văn chương của Giả Nghị, thái phó nhà Hán, còn lưu với ngàn cây,

Nỗi trung phẫn của Khuất Nguyên, bầy tôi nước Sở, còn trôi với sóng xanh.

Đến ngưỡng cửa làm thơ, mây theo bước, Dưới lan can uống rượu, mưa gội nỗi lòng.

Cuộc sống đạm bạc đáng thương, vị thiền lạnh nhạt,

Một chén rượu núi làm thơm tình khách xa.

Dịch thơ:

Trường Sa vời vợi nước sông Tương, Lên Củng Cực lầu, ngóng Nhạc Dương. Giả Nghị văn chương, cây cối đượm, Khuất Bình trung phẫn, nước còn vương. Thơ thành mây vướng bên song vẽ,

Rượu uống mưa hoà giữa vách hương. Đạm bạc mừng thay, thiền vị nhạt, Làm thơm tình khách: rượu non hường.

Bờ cõi Bắc Nam, tuy cách trở,

Tư văn kim cổ, vẫn chung nhà. Gặp nhau vội vã tình chưa đượm,

1 Nguyên chú: 步雲田元韻樓在橘洲長沙府城對岸 Làm theo

nguyên vần bài thơ của Vân Điền, lầu Củng Cực nằm ở bờ bên kia thành phủ Trường Sa, tại Quất Châu.


吳澧溪曰賈屈之事千古同嘆過長沙者原自有此詩料

Ngô Lễ Khê bàn: Chuyện của Giả Nghị, Khuất Nguyên, ngàn thuở nay ai cũng than thở, những người qua Trường Sa vốn lấy chuyện đó mà làm thơ.

48.過洞庭湖

片片風帆渡水涯湖中吳楚水分岐扁舟月暗蛾眉影叢竹煙凝玉淚枝草樹跡迷雲夢輦黃金名勒岳陽碑君山十二逕過後紅橘分甘引酒巵

QUÁ ĐỘNG ĐÌNH HỒ

Phiến phiến phong phàm độ thuỵ nhai, Hồ trung Ngô Sở thuỵ phân kỳ.

Biên chu nguyệt ám nga mi ảnh, Tùng trúc yên ngưng ngọc lệ chi. Thảo thụ tích mê Vân Mộng liễn, Hoàng kim danh lặc Nhạc Dương bi. Quân Sơn thập nhị kinh qua hậu, Hồng quất phân cam dẫn tửu chi.

Dịch nghĩa:

QUA HỒ ĐỘNG ĐÌNH

Từng cánh buồm lộng gió qua dòng nước,

Trong hồ nước cũng chia Ngô, Sở, nước rẽ làm hai. Một chiếc thuyền nhỏ, vầng trăng mờ như bóng mày ngài,

Khóm trúc, sương khói đọng trên cành như những giọt lệ ngọc.

Cỏ cây làm mờ dấu xe nơi Vân Mộng,

Tên vẫn còn thếp vàng trên bia Nhạc Dương. Sau khi qua mười hai ngọn núi Quân Sơn,

Chén rượu uống cùng nhau, chia trái quýt đỏ ngọt ngào.

Dịch thơ:

Từng cánh buồm căng, vượt sóng ngàn, Hồ chia Ngô, Sở, nước hai đàng.

Trăng mờ thuyền nhỏ, mày ngài nhạt, Móc đọng trúc tùng, lệ ngọc chan.

Vân Mộng làn xe, cây cỏ lấp,

Nhạc Dương bia đá, thếp vàng trương. Quân Sơn trải hết mười hai ngọn, Quýt đỏ chia nhau, chén rượu hường.


吳澧溪曰五湖惟洞庭最好使程過湖往往有詩詩亦往往多佳句蓋湖中風景甚多應接不暇隨句便佳譬如作聖人誦不假文章儘有事實施美人粧不費脂粉儘有華麗

Ngô Lễ Khê bàn: Trong Ngũ hồ, chỉ có hồ Động Đình là đẹp nhất, trên chặng đường đi sứ ai ngang qua hồ này cũng thường có làm thơ, mà thơ cũng thường có nhiều câu hay. Cảnh sắc trong hồ rất nhiều, kẻ xướng người hoà chẳng ngớt, lời lẽ càng hay, thí như, ca tụng thánh nhân, chẳng cần mượn văn chương đẹp đẽ, mà trọn vẹn đầy đặn; trang điểm cho người đẹp, lại chẳng cần nhờ son phấn mà cũng hoa lệ đẹp thay.

49.偶作

幾度桑田幾度滄堪輿一塊正茫茫山河著落枰中久王伯盈輸局裡忙天若無文機不造地因有理險能藏桑蓬最是平生意莫厭間關道路長

NGẪU TÁC

Kỵ độ tang điền kỵ độ thương, Kham dư nhất khối chính mang mang. Sơn hà trứ lạc bình trung cửu,

Vương bá doanh du cục lý mang. Thiên nhược vô văn cơ bất tạo, Địa nhân hữu lý hiểm năng tàng. Tang bồng tối thị bình sinh ý, Mạc yếm gian quan đạo lộ trường. Dịch nghĩa:

NGẪU NHIÊN LÀM THƠ

Mấy độ nương dâu hoá thành biển cả, Một mảnh dư đồ còn mịt mờ.

Non sông được hay mất, trong cờ đã có từ lâu, Vương bá thắng hay thua, trong cuộc còn bận. Trời nếu không có văn, cơ xảo không tạo được, Đất vì có lý, hiểm hung có thể ẩn tàng.

Thoả chí tang bồng là ý cả cuộc đời,

Nên chẳng chán đường đi cách trở núi non xa xôi.

Dịch thơ:

Dâu biển bao phen mấy độ dời, Dư đồ một mảnh mịt mờ phơi. Non sông được mất, cờ bày sẵn,

Vương bá hơn thua, cuộc chẳng ngơi. Trời nếu không văn, cơ khó tạo,

Đất vì có lý, hiểm thường khơi. Bình sinh quyết thoả tang bồng chí,

Chẳng ngại đường dài cách biển khơi.

吳澧溪曰構思新奇

Ngô Lễ Khê bàn: Cấu tứ mới lạ.

50 楚中

洞庭湖水岳陽樓



千載悠悠爭艷出巫峽朝飛神女雲湘江夜鼓靈妃瑟火殘江口熄人謀風剩石頭吹鬼術往古滔滔水逝東山川定記騷人筆

SỞ TRUNG

Động Đình hồ thuỵ Nhạc Dương lâu, Thiên tái du du tranh diễm xuất.

Vu Giáp triêu phi Thần nữ vân,1 Tương Giang dạ cổ Tương linh sắt.2

Hoả tàn giang khẩu tức nhân mưu, Phong thặng thạch đầu xuy quỵ thuật. Vãng cổ thao thao thuỵ thệ đông, Sơn xuyên định ký tao nhân bút.

Dịch nghĩa: TRONG ĐẤT SỞ

Lầu Nhạc Dương trên hồ Động Đình, Ngàn năm còn tranh nhau phô vẻ đẹp. Thần nữ làm mây sáng bay trên núi Vu,

Tương phi đêm gảy đàn sắt vang trên sông Tương. Ngọn lửa tàn trên bến sông, làm tiêu nỗi lo toan của người,

Gió lùa trên đầu ngọn đá, làm trò ma quỵ. Xưa nay nước vẫn cuồn cuộn chảy về đông,

Núi sông hẳn được ghi vào bút mực của bậc tao nhân.

Dịch thơ:

Lầu Nhạc Dương trên cõi Động Đình, Ngàn năm phô vẻ đẹp tươi xinh.

Non Vu sớm sớm, mây Thần nữ, Tương Thuỷ đêm đêm, khúc Nữ Anh. Trên bến lửa tàn, niềm khách lịm, Đầu ghềnh gió nổi, quỷ ma sinh.

Về đông nước chảy xưa nay vẫn, Sông núi tao nhân bút mặc tình.

阮素如曰雅淡有古意

Nguyễn Tố Như bình: Thanh nhã, bình đạm, có ý xưa.


51.過南屏山懷古南屏一望憶人龍湖海滔滔水逝東野燒晚迷江口火浦雲晴捲石頭風煙波乍散吞吳恨臺榭猶留輔漢攻


欲認千秋經畫地青霜紫電靄山中

QUÁ NAM BÌNH SƠN HOÀI CỔ

Nam Bình nhất vọng ức nhân long,3 Hồ hải thao thao thuỵ thệ đông.

Dã thiêu vãn mê giang khẩu hoả, Phố vân tình quyển thạch đầu phong. Yên ba sạ tán thôn Ngô hận,

Đài tạ do lưu phụ Hán công.

Dục nhận thiên thu kinh hoạch địa, Thanh sương tử điện ái sơn trung. Dịch nghĩa:

QUA NÚI NAM BÌNH NHỚ CHUYỆN XƯA

Vừa nhìn núi Nam Bình nhớ đến Rồng người, Biển hồ nước chảy cuồn cuộn trôi về đông.

Lửa đốt đồng chiều tối làm mờ cửa sông, Gió thổi mây bến cuộn trên đầu núi đá.

Khói sóng chợt tan như cơn hận thôn tính nước Ngô,

Đền đài vẫn còn như công phò nhà Hán.

Muốn nhìn vùng đất chia ba chân vạc ngàn năm trước,

Mà sương xanh chớp tía mù cả núi non.

Dịch thơ:

Nhác thấy Nam Bình, nhớ Ngoạ Long, Cuộn dòng hồ biển nước về đông.

Lửa đồng chiều muộn mờ bờ bến, Mây gió đầu non cuốn cõi không. Đền gác còn ghi công giúp Hán, Khói sông tản mát hận thôn Đông. Muốn nhìn vùng đất ngàn năm trước, Chớp tía sương xanh núi mịt mùng.


52.登黃鶴樓作黃鶴樓頭象外寬漢陽城郭遶晴瀾呂仙醉後重來杳崔灝詩成再和難塵夢未醒青草畔鄉心每寄白雲端翰飛跡古炎陬遠人景遭逢有此觀

ĐĂNG HOÀNG HẠC LÂU TÁC

Hoàng Hạc lâu đầu tượng ngoại khoan, Hán Dương thành quách nhiễu tình lan. Lữ Tiên tuý hậu trùng lai diểu,

Thôi Hiệu thi thành tái hoạ nan. Trần mộng vị tinh thanh thảo bạn, Hương tâm mỗi ký bạch vân đoan. Hàn phi tích cổ viêm tưu viễn,


1 Thần nữ vân: mây Thần nữ, tức Vu Sơn thần nữ.

2 Tương linh sắt: đàn Tương Linh, tức tiếng đàn của Nga Hoàng, Nữ Anh vợ vua Thuấn.


3 Nhân long: rồng người, chỉ Khổng Minh Gia Cát Lượng, vì ông có hiệu là Ngoạ Long tiên sinh.


Nhân cảnh tao phùng hữu thử quan.

Dịch nghĩa:

LÊN LẦU HOÀNG HẠC LÀM THƠ

Ngoài lầu Hoàng Hạc cảnh trời mênh mông, Thành quách Hán Dương sóng xanh bao phủ.

Tiên Lữ Động Tân sau khi say chẳng quay trở lại nữa,

Thôi Hiệu đề thơ rồi khó ai hoạ lại được.

Giấc mộng trần chưa tỉnh, bên bờ cỏ xanh xanh, Lòng quê hương thường gởi theo làn mây trắng. Cánh chim đã bay cao, dấu xưa vẫn còn, ta từ miền phương nam hẻo lánh đến,

Người và cảnh gặp nhau mới có cuộc lên chơi lầu này.

Dịch thơ:

Cảnh lầu Hoàng Hạc giữa bầu không, Thành quách Hán Dương sóng cuộn vòng. Say tít Lữ Tiên, đi chẳng lại,

Thơ thành Thôi Hiệu, hoạ khôn xong. Cỏ xanh giấc mộng vùi chưa tỉnh, Mây trắng tình quê gửi tấm lòng.

Dấu cũ vời xa, ta khách lạ,

Cảnh, người gặp gỡ, dạo lầu trông.

吳澧溪曰尖新整暇直瞰唐藩

Ngô Lễ Khê bàn: Sắc sảo mới mẻ, nghiêm chỉnh nhàn nhã, vào được phên giậu của thơ Đường.

阮素如曰崔灝詩成後人到此竟道不得此句從陳中構出新思可以詠黃鶴矣

Nguyễn Tố Như bàn: Thơ Thôi Hiệu viết xong, người đời sau đến nơi này không thể viết thêm nữa. Câu này xuất từ Trần Trung mà ra, nhưng có ý mới, có thể vịnh lầu Hoàng Hạc vậy.


53.留題漢陽天都庵漢陽草樹晚煙濃 歇步天都訪梵宗 法雨篩塵清椏岸 曇雲吐艷蔚蓮峰1吟魂淡蕩湖中月 旅夢悠揚樓上鐘 夜色光分歸鶴影 半窗疑是白衣容

LƯU ĐỀ THIÊN ĐÔ AM

Hán Dương thảo thụ vãn yên nùng, Yết bộ Thiên Đô phỏng phạm tông. Pháp vũ sư trần thanh liễu ngạn, Đàm vân thổ diễm uý Liên phong.

Ngâm hồn đạm đãng hồ trung nguyệt, Lữ mộng du dương lâu thượng chung.

Dạ sắc quang phân quy hạc ảnh, Bán song nghi thị bạch y dung. Dịch nghĩa:

ĐỀ THƠ ĐỂ LẠI Ở AM THIÊN ĐÔ

Cỏ cây Hán Dương khói chiều phủ mờ, Đi bộ đến thiên Đô thăm cảnh thiền.

Mưa pháp lắng bụi trần, bờ liễu xanh trong, Mây đàm khoe nở nơi ngọn núi Liên Hoa.

Hồn thơ đạm bạc tựa bóng trăng trong hồ nước, Giấc mộng khách du dương như tiếng chuông trên lầu.

Bóng đêm sáng rõ nhìn thấy cả bóng hạc bay trở về,

Cửa mở nửa cánh, nghi là có người tiên ở đó.

Dịch thơ:

Hán Dương cây cỏ khói mây nồng, Dạo bước Thiên Đô viếng phạm tông. Mưa pháp lắng trần bờ liễu biếc, Mây đàm khoe sắc ngọn Liên phong. Hồn thơ, trăng nước, trong thanh tựa,

Mộng khách, chuông lầu, trầm bổng chung. Bóng hạc trong đêm về lấp lánh,

Nửa song cửa khép, ngỡ tiên hồng.


55. 步天都庵詩韻書贈員外郎汪旅思如醇著處濃

相投況遇郭林宗清分楚峽三江水香惹蓮花十丈峰毫氣直將凌碧漢騷音不啻叩黃鍾井梧月照歸軺影好向天都挹笑容

BỘ THIÊN ĐÔ AM THI VẬN THƯ TẶNG VIÊN NGOẠI LANG UÔNG

Lữ tứ như thuần trứ xứ nùng,

Tương đầu huống ngộ Quách Lâm Tông. Thanh phân Sở giáp Tam Giang thuỵ, Hương nhạ Liên hoa Thập Trượng phong. Hào khí trực tương lăng bích Hán,

Tao âm bất thí khấu hoàng chung.2

Tỉnh ngô nguyệt chiếu quy thiều ảnh, Hảo hướng Thiên Đô ấp tiếu dung.

Dịch nghĩa:

THEO VẦN BÀI THƠ THIÊN ĐÔ AM, VIẾT TẶNG VIÊN NGOẠI LANG UÔNG

Nỗi lòng khách phương xa như men say nên đâu đâu cũng nồng nàn,

Gặp nhau hai lòng tương hợp như chuyện Quách Lâm Tông.

Trong vắt tựa đỉnh núi Vu và dòng Tam Giang,


1 Nguyên chú: 庵前江中有蓮花峰 Trong dòng sông trước am có ngọn núi Liên Hoa.

2 Hoàng chung: chuông vàng, là một loại nhạc khí được dùng ở miếu đường, là âm luật đầu tiên trong 12 âm luật của nhạc.


Hương quyện thơm núi Thập Trượng và Liên Hoa. Hào khí luôn xông thẳng lên trời biếc,

Tiếng thanh tao như gõ tiếng chuông vàng.

Trăng sáng chiếu cội ngô đồng bên giếng, và bóng xe trở về,

Mặt rạng rỡ nụ cười nhìn về am Thiên Đô.

Dịch thơ:

Tình khách như say, đâu cũng nồng, Tâm đầu gặp gỡ tựa Lâm Tông.

Trong như Sở giáp, Tam Giang thuỷ,

Thơm quyện Liên hoa, Thập Trượng phong. Hào khí xông trời, xuyên bích Hán,

Tao âm vọng đất, gõ hoàng chung. Xe về trăng chiếu, ngô đồng vắng, Nhìn mãi Thiên Đô rạng nét hồng.

阮素如曰閒雅整暇大家風格

Nguyễn Tố Như bàn: Nhàn nhã nghiêm trang, có phong cách của bậc đại gia.


57.答贈王鐵崖 次韻星車萬里歷名區

自覺疏狂愧謂儒晉帖但能臨八法漢文猶未賦1三都直將名義邀天寵豈以衣冠炫海隅關塞尚醋羇旅夢羨誰高臥獨懷瑜

ĐÁP TẶNG VƯƠNG THIẾT NHAI, THỨ VẬN

Tinh xa vạn lý lịch danh khu, Tự giác sơ cuồng quý vị nho.

Tấn thiếp đãn năng lâm bát pháp,2 Hán văn do vị phú Tam đô.3

Trực tương danh nghĩa yêu thiên sủng, Khởi dĩ y quan huyễn hải ngu.

Quan tái thượng hàm ki lữ mộng, Tiện thuỳ cao ngoạ độc hoài du.4 Dịch nghĩa:

THƠ ĐÁP TẶNG VƯƠNG THIẾT NHAI, THEO THỨ VẬN

Xe sứ vượt muôn dặm đường gập ghềnh,

Tự thấy mình lười biếng cuồng ngông, thẹn được gọi là nhà nho.



1 Nguyên văn khắc bộ bối ở dưới chữ vũ.

2 Câu này nhắc đến thiếp chữ của Vương Hy Chi đời Tấn, bát pháp

tức Vĩnh tự bát pháp (tám nét bút chữ Vĩnh), người học thư pháp trước tiên phải bắt đầu từ chữ này.

3 Câu này nhắc đến bài Tam đô phú của đời Hán.

4 Hoài du: ôm ngọc du. Xuất từ câu “hoài cận ác du hề, cùng bất tri sở thị” trong bài Hoài Sa, Cửu chương, Sở Từ. Ngọc cận và du là hai thứ

ngọc quý, chỉ phẩm hạnh, đức tốt của người quân tử.

Thiếp chữ Lan đình của Hy Chi đời Tấn, tôi chỉ võ vẽ được tám cách,

Văn Hán còn chưa làm được như phú Tam đô. Cứ đem danh nghĩa mà được ưu ái mời,

Há dùng áo mão mà làm rạng kẻ góc biển xa xôi. Nơi quan ải còn mơ giấc mơ khách trọ,

Thèm như ai ôm ngọc du nằm cao gối một mình.

Dịch thơ:

Muôn trùng xe sứ vượt lô nhô, Vốn bẩm tính lười thẹn tiếng Nho. Thiếp chữ lơ mơ vừa tám nét, Hán văn võ vẽ phú Tam Đô.

Cũng nhờ danh nghĩa nên ân sủng, Nào bởi y quan rạng cõi mờ.

Quan ải vấn vương cơn lữ mộng, Thèm ai ôm ngọc gối đầu pho!


59.過豫讓橋有感 5邢臺城裡駕征鞍一帶長虹著眼看梁下月低吞炭影板頭霜印漆身寒眾人今日經過易國士當年去住難趙孟基圖隨逝水橋名終古占江干

QUÁ DỰ NHƯỢNG KIỀU HỮU CẢM

Hình đài thành lý giá chinh an, Nhất đới trường hồng trứ nhãn khan. Lương hạ nguyệt đê thôn thán ảnh, Bản đầu sương ấn tất thân hàn.

Chúng nhân kim nhật kinh qua dị, Quốc sĩ đương niên khứ trú nan. Triệu Mạnh cơ đồ tuỳ thệ thuỵ,

Kiều danh chung cổ chiếm giang can.

Dịch nghĩa:

CẢM XÚC KHI QUA CẦU DỰ NHƯỢNG

Trong thành Hình đài đóng ngựa đi xa, Mắt cứ nhìn một chiếc cầu cong dài.

Bóng trăng xà thấp dưới nhịp cầu như bóng người ngậm than (ngày trước),

Sương in trên cầu ván lạnh lùng tựa người tẩm sơn nằm phục (thuở xưa).

Người thường ngày nay đi qua đó thì dễ,

Mà bậc quốc sĩ năm ấy khó rời khỏi chỗ cầu này. Cơ đồ của Triệu Mạnh đã theo dòng nước chảy, Tên cầu xưa nay vẫn chiếm một vùng sông.

Dịch thơ:

Thành quách Hình Đài, thắng ngựa dong, Xa nhìn thấp thoáng chiếc cầu vồng.

Cầu nghiêng trăng xế, than hồng ngậm,



5 Nguyên chú: 橋在邢臺城內 Cầu nằm ở trong thành Hình Đài.


Ván cũ sương in, bóng lạnh lùng. Bao khách ngày nay qua đó dễ, Mà người năm ấy chẳng cam lòng, Cơ đồ Triệu Mạnh theo dòng chảy, Muôn thuở tên cầu rạng bến sông.

阮素如曰胸次高邁造語壯旺

Nguyễn Tố Như bàn: Ý tứ trong lòng cao vời nên lời lẽ tráng kiện.


60.過周文王羑里碑羑里碑傳不世功 經過此日仰無窮 地因大難留名跡 天以玄機誘聖衷 周易蓍龜千古在 殷臺金玉片時空 一源道統平生學 醒覺初心夢寐中

QUÁ CHU VĂN VƯƠNG DỮU LÝ BI

Dữu Lý bi truyền bất thế công, Kinh qua thử nhật ngưỡng vô cùng. Địa nhân đại nạn lưu danh tích, Thiên dĩ huyền cơ tú thánh trung. Chu dịch trứ quy thiên cổ tại,

Ân đài kim ngọc phiến thời không. Nhất nguyên đạo thống bình sinh học, Tỉnh giác sơ tâm mộng mị trung.

Dịch nghĩa:

NGANG QUA TẤM BIA DỮU LÝ CỦA CHU VĂN VƯƠNG

Tấm bia Dữu Lý còn truyền công nghiệp muôn đời, Ngày nay ngang qua ngưỡng mộ vô cùng.

Đất vì người có nạn lớn mà còn để lại dấu tích, Trời đem lẽ huyền diệu ban cho bậc thánh nhân. Chu dịch, bói rùa, ngàn năm còn đó,

Đài nhà Ân, ngọc vàng thoắt đã thành không. Một nguồn đạo thống cả đời học,

Làm thức tỉnh chân tâm trong giấc mộng.

Dịch thơ:

Dữu Lý bia truyền cái thế công, Ngày nay qua đó mến khôn cùng. Đất vì đại nạn, nêu danh tích,

Trời lấy huyền cơ, giúp thánh trung. Chu dịch quẻ rùa ngàn thuở vẫn, Ân đài vàng ngọc thảy thành không. Cả đời ta học theo nguồn đạo,

Giữa mộng ngộ ra, một tấm lòng.


吳澧溪曰非聖人蒙難之處羑里必無名非聖人蒙難之時羲畫必無象地留名跡天誘玄機天地不出此周易一部而聖人功用亦莫此爲大故詩意專主於易可謂探得骨子

Ngô Lễ Khê bàn: Nếu chẳng phải là nơi bậc thánh nhân mắc nạn thì Dữu Lý cũng chẳng nổi tiếng gì, nếu chẳng phải là khi bậc thánh nhân mắc nạn mà vạch quẻ Phục Hy thì quẻ ấy cũng không có hình tượng. Đất lưu danh tích, trời chứa huyền cơ, khắp trời đất không ra khỏi một bộ kinh Chu Dịch thì công dụng của bậc thánh nhân cũng chẳng to lớn như thế, vậy nên ý thơ chuyên ở Dịch, đáng gọi là sờ đến tận xương tuỵ.


61.過邯鄲呂僊翁祠岳陽醉後話歸程 路入邯鄲草樹晴 紅米無心留富貴 黃梁有意煑1功名多將替笏羇塵夢 誰向雲煙弄笛聲 寧靜也知僊不遠 何須借枕臥盧生

QUÁ HÀM ĐAN LỮ TIÊN ÔNG TỪ

Nhạc Dương tuý hậu thoại quy trình, Lộ nhập Hàm Đan thảo thụ tình.

Hồng mễ vô tâm lưu phú quý, Hoàng lương hữu ý chử công danh. Đa tương thế thốc ki trần mộng, Thuỳ hướng vân yên lộng địch thanh. Ninh tĩnh dã tri tiên bất viễn,

Hà tu tá chẩm ngoạ Lư sinh.

Dịch nghĩa:

QUA ĐỀN TIÊN ÔNG HỌ LỮ Ở HÀM ĐAN

Sau cơn say ở Nhạc Dương lại nói chuyện ngày về, Trên đường vào Hàm Đan cỏ cây quang tạnh.

Nếp đỏ vô tâm mà để lại sự giàu sang, Kê vàng có ý lại đốt cháy công danh. Thường đem nia sọt rây giấc mơ trần thế, Ai thổi tiếng sáo bay vào khói mây.

Yên lặng thì biết tiên không còn xa nữa, Cần gì như Lư sinh mượn gối ngủ mơ. Dịch thơ:

Nhạc Dương say khước, chuyện quy trình, Đường đến Hàm Đan, cỏ ngát xanh.

Nếp đỏ vô tâm, lưu phú quý, Kê vàng hữu ý, nấu công danh.

Khách đem sàng sọt rây cơn mộng, Ai lộng mây trời trổi sáo thanh.

Tĩnh lặng thì hay tiên chẳng cách, Cần gì mượn gối giống Lư Sinh!


吳澧溪曰多少迷魂總緣此夢雲煙笛聲未必喚醒得來


1 Nguyên văn khắc bộ hoả ở bên trái chữ giả.


Ngô Lễ Khê bàn: Bao nhiêu tâm hồn lạc lối đều do mộng ấy mà ra, khói mây sáo trỗi chưa chắc đã gọi thức được giấc mơ.

阮素如曰意見超邁

Nguyễn Tố Như bàn: Ý tứ thật siêu thoát cao vời.


62.渡滹沱河作晴望恆山灝氣凝滹沱晚過碧波澄平沙鴈去秋聲落古渡人歸翠影凌岸口煙餘然漢火江心澌解濟師冰經過此地將誰訪泛泛漁舟月一泓

ĐỘ HÔ ĐÀ HÀ TÁC

Tình vọng Hằng sơn hạo khí ngưng, Hô Đà vãn quá bích ba trừng.

Bình sa nhạn khứ thu thanh lạc, Cổ độ nhân quy thuý ảnh lăng.

Ngạn khẩu yên dư nhiên Hán hoả, 1

Giang tâm tư giải tế sư băng.

Kinh qua thử địa tương thuỳ phỏng, Phiếm phiếm ngư chu nguyệt nhất hoằng. Dịch nghĩa:

LÀM LÖC QUA SÔNG HÔ ĐÀ

Trời quang nhìn núi Hằng sơn sương trắng ngưng đọng,

Chiều qua sông Hô Đà, sóng xanh lặng lẽ.

Bãi cát bằng chim nhạn bay kêu vang từng tiếng thu rơi xuống,

Bến đò xưa người trở về bóng xanh hắt lên.

Nơi bến sông vẫn còn mấy vệt khói thừa báo hiệu ở vùng biên giới,

Lòng sông đang tiết băng tan như quân tiếp viện. Ngang qua vùng đất này muốn hỏi thăm ai đó,

Chỉ thấy một chiếc thuyền chài cá trôi trong dòng trăng sáng.

Dịch thơ:

Sương trắng ngưng trên ngọn núi Hằng, Hô Đà chiều xuống nước lăn tăn.

Bãi bờ nhạn vút, âm văng vẳng, Đò cũ ai về, bóng xẳng xăng.

Cửa bến còn mù hơi khói lửa, Lòng sông đã rã khối đông băng. Qua đây muốn hỏi thăm ai đó,

Lờ lững thuyền câu, nguyệt một vầng.

63.題興隆寺2

征鞍暫歇覓閒人攜步禪門雨浥塵跡已千年留梵宇巍然七丈現金身天章榮煥蓮臺麗御座光分法界春悟得菩提真福果古來每結帝王因

ĐỀ HƯNG LONG TỰ

Chinh an tạm yết mịch nhàn nhân, Huề bộ thiền môn vũ ấp trần.

Tích dĩ thiên niên lưu phạm vũ, Nguy nhiên thất trượng hiện kim thân. Thiên chương binh hoán liên đài lệ, Ngự toạ quang phân pháp giới xuân. Ngộ đắc bồ đề chân phúc quả,

Cổ lai mỗi kết đế vương nhân.

Dịch nghĩa:

ĐỀ THƠ CHÙA HƯNG LONG

Tạm ngừng cuộc ruổi rong, để tìm thăm người nhàn nhã,

Dạo bộ cùng lên cửa thiền trong mưa lắng bụi trần. Dấu vết đã lưu lại nơi chùa chiền cả ngàn năm, Nguy nga hiện thân vàng cao bảy trượng.

Vẻ đẹp ngài rực rỡ, đài sen rạng ngời,

Ngự toà sáng rực, mùa xuân đầy pháp giới, Ngộ được bồ đề thật là quả phúc,

Xưa nay thường kết nhân duyên với bậc đế vương.

Dịch thơ:

Đường xa tạm nghỉ, viếng nhàn nhân, Dạo bước thiền môn, sạch bụi trần.

Vết tích ngàn năm, lưu cõi tịnh, Cao vời bảy trượng, hiện kim thân. Cung trời rực rỡ, hoa sen thắm,

Toà ngự huy hoàng, pháp giới xuân. Ngộ được bồ đề, là quả phúc,

Duyên lành thường kết với vương quân.


阮素如曰虛無境界猶有托於人王人生在世可忽云乎哉

Nguyễn Tố Như bàn: Cảnh giới hư vô, vẫn thác gửi ở bậc vương, đời người sống ở đời, há đâu qua loa được chăng?


64.宜溝客中七夕宜溝秋色掛梧枝霜淡更深酒力微午女影斜烏夜噪




1 Hán hoả: lửa báo hiệu, đời Hán, có đốt lửa báo hiệu ở vùng biên giới. Về sau mượn dùng để chỉ vùng biên cương.

2 Nguyên chú: 寺在直隸正宧府城內有大佛像高七丈餘 (Chùa nằm

trong thành phủ Chính Hoạn ở Trực Lệ, có tượng phật cao hơn bảy mươi trượng.)


關山月冷鴈南飛人情欲巧多爭線客思無聊漫晒衣佳節恐牽離別況且憑欹枕夢中歸

NGHI CÂU KHÁCH TRUNG THẤT TỊCH

Nghi Câu thu sắc quải ngô chi, Sương đạm canh thâm tửu lực vi. Ngưu nữ ảnh tà ô dạ táo,

Quan sơn nguyệt lãnh nhạn nam phi. Nhân tình dục xảo đa tranh tuyến, Khách tứ vô liêu mạn sái y.

Giai tiết khủng khiên li biệt huống, Thả bằng khi chẩm mộng trung quy. Dịch nghĩa:

ĐÊM MỒNG BẢY THÁNG BẢY Ở NGHI CÂU

Cảnh thu ở Nghi Câu mắc trên ngọn ngô đồng, Sương rơi trong đêm khuya (thấy lạnh lẽo), (nhưng ta thì) tửu lượng kém.

Bóng người ngưu nữ xế nghiêng, quạ kêu rộn trong đêm,

Ánh trăng trên núi xa lạnh lùng, đàn nhạn bay về nam.

Người đời thường muốn cầu cho khéo tay, ai cũng tranh nhau xâu chỉ,

Lòng người khách phương xa buồn bã cứ phơi áo mãi (không thể về quê được).

Gặp thời tiết đẹp nhưng lại sợ rằng vương vấn thêm nỗi niềm chia cách,

Nên dựa gối nằm để được về trong mơ.

Dịch thơ:

Ngô đồng giữ vẻ cảnh thu sang,

Rượu kém, đêm khuya sương móc tràn. Ngưu nữ gặp nhau, ô rộn tiếng,

Quan san trăng lạnh, nhạn về nam. Lắm cô cầu khéo, tranh xâu chỉ, Tình khách thêm buồn, áo móc khan. Giai tiết thêm e niềm cách biệt,

Chi bằng tựa gối mộng hồi hương.


吳澧溪曰疑鄰女彈者借夢中看恐牽離別者憑夢中歸夢幻境也有時托爲實用

Ngô Lễ Khê bàn: Ngỡ cô gái hàng xóm gảy đàn, nhờ vào giấc mộng mà xem, sợ cầm tay li biệt, ấy cũng nhờ trong mộng mà trở về, cảnh mộng huyễn mà có khi cũng có thể nhờ cậy được vậy.

65.遊慈航寺

搖曳鐘聲何處天慈航梵宇椏凝煙松風掃院清禪味竹雨篩窗淨欲緣瓶帶宿香花未插

鑪燒新炭鶴猶眠 今朝若了平生事 應假慈航換玉鞭

DU TỪ HÀNG TỰ

Dao duệ chung thanh hà xứ thiên, Từ Hàng phạm vũ liễu ngưng yên. Tùng phong tảo viện thanh thiền vị, Trúc vũ sư song tịnh dục duyên.

Bình đới túc hương hoa vị sáp, Lô thiêu tân thán hạc do miên.

Kim triêu nhược liễu bình sinh sự, Ưng giả Từ Hàng hoán ngọc tiên. Dịch nghĩa:

DẠO CHƠI CỦA TỪ HÀNG

Quẫy chèo đi, tiếng chuông từ nơi nào vọng đến, Chùa Từ Hàng, khói sương bao trên hàng liễu.

Gió thông thổi quét qua sân chùa, thoảng mùi thiền thanh thoát,

Mưa trúc bay ngoài cửa sổ, làm sạch mối duyên trần.

Cỗ bình còn hương cũ, hoa chưa cắm, Lò cháy hết than mới, hạc còn say giấc.

Sáng nay chợt hiểu được chuyện trong cuộc đời, Cũng nên đổi roi ngọc để được lên thuyền từ bi. Dịch thơ:

Đâu chốn chuông vang lẫn tiếng chèo, Từ Hàng cõi tịnh, liễu sương gieo.

Gió thông quét viện, mùi thiền nhạt, Mưa trúc lùa song, mối tục tiêu.

Bình đượm hương xưa, hoa biếng cắm, Lò tàn than mới, giấc liu riu.

Cả đời bao chuyện, nay vừa hiểu, Roi ngọc, thuyền từ, đổi để theo!

吳澧溪曰寫得清幽雅淡極有禪致

Ngô Lễ Khê nói: Thơ tả được cái thanh u, nhã đạm, thật có ý thiền.

66.車行

關山歷歷屬征途一片丹誠萬里輸不是子方驕富貴終憑王氏範馳驅聞聲喜望人情近投轄相留世味殊自笑原非題杜客亦勞車馬過皇都

XA HÀNH

Quan sơn lịch lịch thuộc chinh đồ, Nhất phiến đan thành vạn lý du.

Xem tất cả 409 trang.

Ngày đăng: 02/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí