Kinh Nghiệm Nâng Cao Năng Lực Tài Chính Của Ngân Hàng Thương Mại Trên Thế Giới Và Bài Học Kinh Nghiệm Đối Với Các Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Việt


Không chỉ tình hình chính trị xã hội trong nước mà cả tình hình chính trị xã hội thế giới cũng ảnh hưởng đến năng lực tài chính của các NHTM. Bởi vì hiện nay các quan hệ kinh tế xã hội ngày càng mở rộng, nên mọi biến động về kinh tế - xã hội trên thế giới đều có ảnh hưởng tới tình hình chính trị xã hội trong nước cũng như khả năng tạo lập nguồn vốn và sử dụng vốn của NHTM. Môi trường chính trị- xã hội sẽ tác động đến niềm tin của các nhà đầu tư, do vậy sẽ ảnh hưởng đến khả năng cũng như hiệu quả hoạt động của các ngân hàng

Môi trường chính trị xã hội ổn định sẽ giúp cho các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư, đặc biệt là đầu tư trung và dài hạn, điều này sẽ góp phần mở rộng qui mô cũng như nâng cao chất lượng tín dụng của NHTM. Với một môi trường chính trị xã hội ổn định, lòng tin của người dân vào vào giá trị đồng tiền và điều hành chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước tăng lên, tạo yếu tố tiền đề cần thiết cho việc tăng cường vốn huy động qua hệ thống ngân hàng. Ngược lại, những bất ổn về chính trị xã hội dẫn đến việc kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều rủi ro và bất trắc hơn, ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn cho vay của ngân hàng.

Một môi trường xã hội với trình độ dân trí hay thói quen của người dân cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc sử dụng dịch vụ của ngân hàng.Qua đó góp phần tăng cường khả năng tìm kiếm lợi nhuận của các NHTM trên cơ sở mở rộng và đa dạng hóa các dịch vụ cung ứng.

- Môi trường pháp lý.

Pháp lý là một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Không có pháp luật hoặc pháp luật không phù hợp với những yêu cầu phát triển của nền kinh tế thì mọi hoạt động trong nền kinh tế không thể thực hiện trôi chảy được. Môi trường pháp lý không chặt chẽ, nhiều kẽ hở và bất cập sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp yếu kém làm ăn bất chính, lừa đảo lẫn nhau và lừa đảo ngân hàng. Môi trường pháp lý không chặt chẽ và thiếu sự ổn định cũng khiến các nhà đầu tư trung thực e dè, không dám mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, do đó giảm khả năng cung ứng tín dụng của NHTM. Mặt khác, hoạt động kinh doanh của NHTM hình thành nên các mối quan hệ kinh tế hết sức đa dạng, nếu không có hệ thống pháp lý đầy đủ điểu chỉnh có thể dẫn đến những vi phạm trong các mối quan hệ hình thành, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động cũng như


năng lực tài chính của NHTM. Hơn thế, do kinh doanh trong lĩnh vực chứa đựng đầy rủi ro nên có thể đe dọa đến sự an toàn của mỗi NHTM cũng như hệ thống ngân hàng. Chính vì vậy, hệ thống pháp lý cần phải có những điều chỉnh chặt chẽ để quy định những giới hạn an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, tránh vì lợi nhuận mà các NHTM kinh doanh mạo hiểm gây những tổn thất đến năng lực tài chính của Ngân hàng.

Song song với hệ thống pháp lý hoàn thiện, cơ chế vận hành hệ thống pháp lý cũng hết sức quan trọng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng cũng như an toàn hoạt động của NHTM. Hiệu quả hoạt động của các bộ phận kiểm soát nội bộ, giám sát của bộ máy quản trị hay thanh tra giám sát của NHNN phụ thuộc rất lớn vào các văn bản pháp luật điều chỉnh được ban hành. Việc kiểm tra, kiểm soát tốt sẽ góp phần phát hiện kịp thời những sai phạm trong ngân hàng, những yếu kém về năng lực tài chính để từ đó có những biện pháp tác động kịp thời nhằm giảm thấp những rủi ro mang đến với NHTM.

- Môi trường kinh tế vĩ mô.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.

Môi trường kinh tế chỉ bản chất và định hướng của nền kinh tế mà trong đó ngân hàng hoạt động. Ngày nay, với sự phát triển của một nèn kinh tế mở, môi trường kinh tế không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà còn mang tính toàn cầu.Các yếu tổ thuộc môi trường kinh tế vĩ mô như tăng trưởng kinh tế, lạm phát, tỷ giá hối đoái, lãi suất vay, sự phát triển của hệ thống tài chính

Sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô là một nhân tố quan trọng tác động đến hoạt động cũng như năng lực tài chính của NHTM. Một môi trường kinh tế ổn định luôn là điều kiện thuận lợi cho hoạt động của cả doanh nghiệp lẫn ngân hàng, giúp NHTM mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tạo lập và sử dụng vốn. Hơn nữa, môi trường kinh tế ổn định sẽ làm cho việc phân bổ nguồn lực của hệ thống NHTM sẽ trở nên chuẩn xác hơn, nguồn vốn sẽ được di chuyển vào những lĩnh vực hoạt động có hiệu quả. Ngược lại, môi trường kinh tế bất ổn như suy thoái kinh tế, lạm phát và thất nghiệp tăng cao thì doanh nghiệp làm ăn sẽ khó khăn, khả năng thu hồi vốn vay của ngân hàng cũng bị giảm sút, điều này sẽ ảnh hưởng đến kết quả hoạt động cũng như sức mạnh tài chính của ngân hàng. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế cao không phải lúc nào cũng được coi là yếu tố tích cực đối với hoạt động của

Nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam hiện nay - 8


NHTM, tình trạng phát triển kinh tế “quá nóng”có thể tạo nên những nguy cơ tiềm ẩn rủi ro cho NHTM.

Mặt khác, môi trường kinh tế còn thể hiện qua mức độ phát triển của hệ thống tài chính, đặc biệt là thị trường tài chính. Nếu thị trường tài chính phát triển, một mặt sẽ thuận lợi cho các NHTMCP phát hành cổ phiếu để tăng vốn điều lệ và ngược lại. Mặt khác, khi thị trường tài chính phát triển sẽ góp phần “san sẻ” gánh nặng về vốn của nền kinh tế với các NHTM

- Chính sách kinh tế của Nhà nước.

Chính sách kinh tế của nhà nước thể hiện các quan điểm định hướng phát triển của nền kinh tế, do đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường kinh tế vĩ mô. Năng lực tài chính của NHTM phụ thuộc nhiều vào những quy định của chính sách như quy định về mức vốn pháp định, quy định về tỷ lệ đảm bảo an toàn vốn, yêu cầu về minh bạch thông tin…đối với các NHTM.Với những quy định này, buộc các NHTM phải chấp hành để dần năng cao năng lực tài chính của mình nhằm đáp ứng yêu cầu an toàn hoạt động.

Với chính sách đầu tư và phát triển kinh tế của nhà nước, cơ cấu đầu tư được hình thành. Nếu định hướng đầu tư đúng đắn, vốn ngân hàng sẽ phát huy hiệu quả, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các NHTM và ngược lại. Đặc biệt, quan điểm điều hành chính sách kinh tế theo hướng ổn định, bền vững hay tăng trưởng cao cũng tác động đến hiệu quả hoạt động cũng như năng lực tài chính NHTM.

Nếu chính sách tiền tệ được vận hành hiệu quả thì sức mua tiền tệ được ổn định, làm tăng khả năng tạo lập và sử dụng vốn của hệ thống NHTM.

1.2.5.1. Nhóm nhân tố thuộc về ngân hàng thương mại

Đây là những nhân tố thuộc về bản thân, nội tại ngân hàng thuộc khả năng kiểm soát của ngân hàng. Những nhân tố này ảnh hưởng đến mọi hoạt động kinh doanh cũng như thực hiện các mục tiêu hoạt động của NHTM, do đó nó ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực tài chính của NHTM. Bao gồm:

- Chiến lược phát triển của ngân hàng thương mại

Các ngân hàng hiện nay đang kinh doanh và cạnh tranh trong một môi trường toàn cầu hóa đầy biến động đòi hỏi phải có một chiến lược phát triển phù hợp để khai thác một cách có hiệu quả những cơ hội và xử lý thỏa đáng với những


thách thức đang đặt ra để bảo đảm đạt tới hiệu quả cao và sự phát triển bền vững. Chiến lược phát triển có thể coi là định hướng phát triển của một NHTM, cùng một mục đích hoạt động nhưng mỗi NHTM đều có những chiến lược phát triển riêng. Tùy vào thị trường mục tiêu để ngân hàng xây dựng chiến lược hoạt động phù hợp.Chiến lược phát triển đúng đắn phải đảm bảo yêu cầu khai thác tốt nhất những lợi thế sẵn có của ngân hàng cũng như phù hợp với biến động của tình hình kinh tế xã hội. Một chiến lược phát triển đúng đắn sẽ giúp NHTM phát triển bền vững, nâng cao mức độ an toàn tài chính cũng như hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Chiến lược phát triển nóng vội với mục đích tối đa hóa lợi nhuận mà không dựa trên thực lực dễ đẩy NHTM vào tình trạng rủi ro, đe dọa đến sự an toàn của NHTM. Chiến lược phát triển được cụ thể hóa qua các chính sách của NHTM như chính sách tín dụng, chính sách huy động vốn, chính sách khách hàng, chính sách lãi suất…Đối với một NHTM, chính sách đúng đắn phải đảm bảo được khả năng sinh lời từ các hoạt động kinh doanh trên cơ sở phân tán rủi ro, đảm bảo an toàn hoạt động, tuân thủ pháp luật và đường lối chính sách của nhà nước..

- Năng lực quản trị của ngân hàng thương mại.

Là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, hoạt động kinh doanh của NHTM chứa đựng nhiều rủi ro nên khả năng quản trị mà đặc biệt là quản trị rủi ro có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các NHTM. Một ngân hàng quản trị yếu kém không chỉ gây tổn thất riêng đối với ngân hàng đó mà có thể gây nên rủi ro cho cả hệ thống ngân hàng. Thực chất, năng lực quản trị của NHTM là thước đo khả năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng trước những tác động bất lợi. Đối với ngân hàng, lợi nhuận là mục tiêu hoạt động, tuy nhiên lợi nhuận càng cao thì mức độ rủi ro sẽ càng lớn. Do vậy, lợi nhuận có được tùy thuộc vào khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng. Khẩu vị rủi ro của mỗi ngân hàng là khác nhau, tùy thuộc vào năng lực quản trị của mỗi ngân hàng, nhiều nghiên cứu và khảo sát đã chỉ ra rằng, nếu một NHTM có năng lực quản trị tốt sẽ góp phần hạn chế rủi ro, gia tăng sức mạnh tài chính của ngân hàng.

Xu hướng phát triển theo chiều hướng không ngừng mở rộng quy mô và “đa năng hóa”hoạt động cùng với mức độ hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, rủi ro mà các NHTM phải đối mặt sẽ ngày càng lớn. Năng lực quản trị tốt sẽ tạo nên


được bức rào chắn vững chắc trước những rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt trong hoạt động kinh doanh, góp phần thực hiện được mục tiêu kinh doanh của NHTM.

- Công nghệ ngân hàng.

Với đặc điểm kinh doanh là chuyên cung cấp các dich vụ tài chính đáp ứng nhu cầu thị trường. Do vậy, khi nhu cầu thị trường ngày càng cao về loại hình cũng như chất lượng dịch vụ, đòi hỏi các NHTM không ngừng hoàn thiện và phát triên các sản phẩm của mình. Để làm được điều này, yếu tố công nghệ ngân hàng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Công nghệ ngân hàng hiện đại sẽ giúp các NHTM phát triển nhiều sản phẩm dịch vụ mới cũng như nâng cao chất lượng các dịch vụ, tạo nguồn thu ổn định và bền vững cho NHTM. Để nâng cao năng lực tài chính, xu hướng chuyển dịch cơ cấu thu nhập của ngân hàng là tăng nguồn thu từ những hoạt động dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại. Mặt khác, công nghệ ngân hàng còn hỗ trợ các NHTM trong việc dữ liệu thông tin khách hàng vay, kiểm tra kiểm soát nội bộ, nhận biết rủi ro phát sinh để có biện pháp kịp thời xử lý. Dựa trên công nghệ ngân hàng hiện đại, những thông tin giữa các NHTM được chia sẻ, góp phần thực hiện chính xác công tác phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, phản ánh tình hình tài chính của các NHTM một cách trung thực nhất.

Đứng trên góc độ quản lý, yếu tố công nghệ ngân hàng sẽ giúp cho NHTW thực hiện tốt vai trò thanh tra, giám sát hoạt động của hệ thống NHTM, phát hiện kịp thời những yếu kém về năng lực tài chính và nguy cơ mất an toàn trong hoạt động của các NHTM để từ đó có những biện pháp quản lý phù hợp.

- Chất lượng nguồn nhân lực.

Con người luôn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp mà đặc biệt là NHTM. Bởi với áp lực cạnh tranh gay gắt, chất lượng nguồn nhân lực là cái tạo nên sự khác biệt căn bản về năng lực cạnh tranh của mỗi NHTM. Vì vậy, chất lượng nguồn nhân lực sẽ tác động không nhỏ đến năng lực tài chính của mỗi ngân hàng. Chất lượng nguồn nhân lực thể hiện trên nhiều khía cạnh như: Kỹ năng, trình độ chuyên môn, kiến thức ngoại ngữ, tin học, đạo đức nghề nghiệp… Một ngân hàng có đội ngũ cán bộ năng động sáng tạo, có kiến thức chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp sẽ thực hiện tốt khả năng tạo lập nguồn vốn cũng như sử dụng vốn của ngân hàng. Trên thực tế cho thấy, có những ngân


hàng phải hứng chịu tổn thất nặng nề thậm chí đứng trước nguy cơ đổ vỡ do những yếu kém về năng lực điều hành, chuyên môn và đạo đức của cán bộ ngân hàng.

1.3. KINH NGHIỆM NÂNG CAO NĂNG LỰC TÀI CHÍNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM.

1.3.1. Kinh nghiệm nâng cao năng lực tài chính của ngân hàng thương mại các nước trên thế giới.

Tự do hóa tài chính đã và đang đặt ra nhiều cơ hội và thách thức cho các NHTM trong quá trình phát triển. Nâng cao năng lực tài chính được coi là một trong những vấn đề cốt lõi để đảm bảo yêu cầu về sức mạnh cạnh tranh của các NHTM trong quá trình hội nhập và phát triển. Vì vậy, việc nâng cao năng lực tài chính luôn là vấn đề đặt ra đối với các NHTM, không chỉ là đối với các ngân hàng “tốp dưới”mà còn cả đối với các ngân hàng “tốp trên”. Đặc biệt, sau khủng hoảng tài chính, năng lực tài chính của các ngân hàng thường bị suy giảm mạnh, nên hơn bao giờ hết yêu cầu nâng cao năng lực tài chính là yếu tố quan trọng hàng đầu đối trong quá trình phát triển của các NHTM.

Kinh nghiệm về những nỗ lực hỗ trợ thanh khoản, tái cơ cấu ngân hàng của Chính Phủ và ngân hàng trung ương trong việc nâng cao năng lực tài chính NHTM sau khủng hoảng

Tại Mỹ: Tình trạng “bong bóng”bất động sản cũng như hạ chuẩn trong cho vay là những nguyên nhân chính gây nên tình trạng nợ xấu gia tăng, khiến nhiều ngân hàng thua lỗ nặng nề. Chính phủ Mỹ đã đưa ra các chính sách hỗ trợ thông qua chính sách tiền tệ, nghiệp vụ thị trường mở, chương trình đấu giá cho vay kỳ hạn và thực hiện các gói cứu trợ lớn. Để giải cứu những tổ chức tín dụng có nguy cơ đổ vỡ, chính phủ Mỹ đã thông qua gói tài chính 700 tỷ USD. Một phần trong số này để giải quyết nợ xấu của các NHTM, một phần dùng để giải quyết thanh khoản tạm thời cho các tổ chức tín dụng yếu kém, phần lớn nhất được sử dụng để mua cổ phiếu ưu đãi của các ngân hàng; Cụ thể :

Về chính sách tiền tệ: Ngay khi khủng hoảng nhà ở thứ cấp nổ ra, FED bắt đầu can thiệp bằng cách hạ lãi suất và tăng mua MBS (Chứng khoán có bảo đảm bằng tài sản thế chấp). Lãi suất cho vay liên ngân hàng đã giảm từ 5,25% qua 6 đợt


xuống còn 2% (từ 18/9/2007 - 30/4/2008). Sau đó, lãi suất vẫn tiếp tục giảm và đến ngày 16/12/2008 chỉ còn 0,25% - mức lãi suất thấp gần bằng 0 hiếm thấy.

Nghiệp vụ thị trường mở. FED thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thông qua mua lại trái phiếu Chính phủ Mỹ mà các ngân hàng của nước này đang nắm giữ. Đặc biệt, FED đưa ra chính sách tăng mua MBS. Tính đến ngày 31/03/2010, FED đã hoàn thành việc mua 1,25 nghìn tỷ USD nhưng vẫn tiếp tục tiến hành các giao dịch trong những tháng tiếp theo. Chương trình mua lại MBS của chi nhánh được điều phối bởi ngân hàng Dự trữ Liên bang chi nhánh New York dưới sự chỉ đạo của Ủy ban thị trường mở Liên bang. Mục tiêu của chương trình này nhằm hỗ trợ cho thị trường thế chấp và nhà ở đồng thời giúp phục hồi thị trường tài chính.

Chương trình đấu giá cho vay kỳ hạn. Ngày 17/12/2007, trước ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn, FED đưa ra Chương trình Đấu giá cho vay kỳ hạn (TAF), nhằm tăng cường tính thanh khoản của thị trường tín dụng Mỹ. TAF cho phép các tổ chức nhận ký gửi đấu giá để được vay những khoản vay ngắn hạn đổi bằng tài sản ký quỹ. Những tổ chức này phải được thẩm định là có tình trạng tài chính lành mạnh. Các tổ chức tham gia đấu giá qua các ngân hàng của FED. Các khoản đấu giá bắt đầu ngày 17/12/2007, với mức lãi suất khởi điểm 4,17% và kết thúc ở 4,65%, FED đã nhận được các khoản ký quỹ trị giá 63 tỷUSD và cho vay 20 tỷ USD với 93 tổ chức khác nhau. Tính đến tháng 11/2008, đã có 300 tỷ USD được FED cho vay theo chương trình TAF.

Các gói kích thích kinh tế. Trước tình hình khủng hoảng ngân hàng nghiêm trọng, chính quyền của Tổng thống Mỹ G. Bush đã trình Quốc hội thông qua gói tài chính 700 tỷ USD (Chương trình Giải cứu Tài sản xấu - TARP). TARP ra đời dựa trên đạo luật “Ổn định khẩn cấp nền kinh tế” (EESA) vào tháng 10/2008. Đạo luật này cho phép Bộ Tài chính Mỹ sử dụng tối đa 700 tỷ USD từ ngân sách liên bang để mua hoặc bảo hiểm những tài sản tài chính có mức độ rủi ro cao của các tổ chức tài chính trong nước. Sau đó, Đạo luật Dodd-Frank (Đạo luật cải cách Wall Street và bảo vệ người tiêu dùng) ra đời ngày 21/07/2010 đã hạn chế hoạt động của TARP và giảm số tiền tổng thể xuống còn 475 tỷ USD.

Tái cấu trúc ngân hàng. Bộ Tài chính Mỹ khuyến khích các ngân hàng tham gia một chương trình tái cấp vốn. Các ngân hàng có thể nhận được tiền bằng cách


đề nghị bán cổ phiếu ưu đãi cho Bộ Tài chính. Việc tái cấp vốn được thực hiện trên diện rộng với một số điều kiện như giới hạn lương, bồi thường cho ban lãnh đạo ngân hàng. Đây là một phần của Chương trình cứu trợ tài sản gặp rắc rối vào tháng 11/2008. Các ngân hàng tham gia Chương trình này là thành viên của Cơ quan FDIC và được FDIC bảo hiểm tạm thời trong Chương trình bảo hiểm tạm thời về khả năng thanh toán tiền mặt. Ngoài ra, FED đã cho vay tới 200 tỷ USD đối với những tài sản được xếp hạng tín nhiệm AAA [39].

Tại Trung quốc [40]: Sở dĩ hệ thống ngân hàng Trung quốc đã vượt qua được những khó khăn sau những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính trên thế giới nhờ vào nhiều những giải pháp nỗ lực từ phía Chính phủ.Để tái cấu trúc các ngân hàng nhằm nâng cao năng lực tài chính. Song song với việc tổ chức lại ngân hàng nhân dân Trung quốc để nâng cao năng lực điều hành, hệ thống giám sát tài chính mà trực tiếp là Ủy ban giám sát ngân hàng nhân dân Trung hoa đã được thành lập để quản lý công tác quản trị rủi ro trong ngân hàng. Hàng loạt các văn bản và quy định mới đã được ban hành về việc áp dụng những chuẩn mực kế toán và kiểm toán độc lập khắt khe hơn, áp dụng các thông lệ quốc tế trong quản trị Ngân hàng như nâng mức tỷ lệ an toàn vốn CAR lên 8% vào năm 1998, hay như phân loại các khoản vay để làm rõ bức tranh nợ dưới chuẩn của ngân hàng... Giải pháp này đã góp phần nâng cao tính minh bạch, khôi phục và duy trì niềm tin của khách hàng, nhận diện kịp thời những ngân hàng có vấn đề để đưa ra những biện pháp xử lý kịp thời. Bên cạnh những nỗ lực từ những giải pháp phù hợp, Chính phủ Trung quốc cũng đã sử dụng nguồn ngân sách để hỗ trợ cho các NHTM trong quá trình lành mạnh hóa tình hình tài chính thông qua việc xử lý nợ xấu của các doanh nghiệp nhà nước. Năm 1998, Chính Phủ sử dụng 40 tỷ NDT từ dự trù ngân sách để xóa nợ xấu cho các DNNN, con số này trong năm trước đó là 30 tỷ NDT và những năm sau đều có dự trù ngân sách để giải quyết nợ xấu.

Tại Thái lan, sau khủng hoảng tài chính vào tháng 10/1997, để củng cố sức mạnh và nâng cao năng lực tài chính của hệ thống ngân hàng, Chính phủ Thái lan đã đề ra một loạt các giải pháp thực hiện như.

Đầu tiên, để khắc phục những yếu kém trong chuẩn mực kế toán lúc bấy giò, Chính phủ yêu cầu tất cả các ngân hàng phải điều chỉnh vốn chủ sở hữu, đáp ứng

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 29/11/2022