KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương này, tác giả đã giới thiệu khái quát về nghiên cứu của luận án để người đọc có thể bước đầu hình dung về nghiên cứu. Đầu tiên, chương 1 nêu lên sự cần thiết nghiên cứu về về năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh tham gia hiệp định CPTPP. Tiếp theo, sơ lược quá trình nghiên cứu về năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định của các ngân hàng được trình bày để thông qua đó, các khe hở nghiên cứu được đưa ra dựa trên vấn đề nghiên cứu về năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định ngân hàng tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập CPTPP còn quá ít. Tiếp theo, luận án trình bày sự cần thiết thực hiện đề tài nghiên cứu cho các ngân hàng thương mại Việt Nam. Chương này cũng nêu lên mục tiêu nghiên cứu của luận án là đo lường năng lực cạnh tranh, mức độ ổn định của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập CPTPP, từ đó đưa ra các gợi ý chính sách cho cơ quan quản lý nhà nước từ kết quả thực nghiệm. Đồng thời, chương 1 cũng nói rõ đối tượng nghiên cứu là năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định cùng với phạm vi nghiên cứu là 31 ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2010 – 2018. Thêm vào đó, chương 1 cũng trình bày phương pháp nghiên cứu bao gồm các phương pháp định tính như liệt kê, mô tả, phân tích, so sánh, tổng hợp để làm rõ cơ sở lý thuyết và xây dựng mô hình thực nghiệm, các phương pháp định lượng và các kiểm định để tiến hành các mô hình thực nghiệm. Về dữ liệu nghiên cứu, chương 1 cũng nêu rõ có dữ liệu 31 ngân hàng thương mại Việt Nam, tổng tài sản và số lượng ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, các chỉ số yếu tố vĩ mô như tốc độ tăng trưởng GDP, tỷ lệ lạm phát. Song song đó, chương 1 nêu rõ các đóng góp mới của luận án ở hai khía cạnh học thuật và thực tiễn. Cuối cùng, chương 1 nêu lên bố cục luận án là gồm 5 chương và nội dung khái quát của từng chương.
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC
Trong chương 2, luận án xác định khung lý thuyết nền dựa trên các cơ sở lý thuyết về các vấn đề liên quan đến nghiên cứu: hội nhập quốc tế, tự do hóa tài chính, năng lực cạnh tranh và ổn định trong lĩnh vực ngân hàng. Bên cạnh đó, thông qua kết quả lược lược khảo từ các nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của các yếu tố đến năng lực cạnh tranh, mức độ ổn định ngân hàng, tác động của cạnh tranh đến ổn định ngân hàng, tác giả xác định phương pháp và dữ liệu phù hợp cho nội dung nghiên cứu của luận án.
2.1. Một số khái niệm liên quan đến nghiên cứu
Có thể bạn quan tâm!
- Năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh tham gia Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương - 2
- Sự Cần Thiết Nghiên Cứu Về Năng Lực Cạnh Tranh Và Ổn Định Ngân Hàng Trong Bối Cảnh Hội Nhập Cptpp.
- Cơ Sở Lý Luận Và Bằng Chứng Thực Nghiệm Liên Quan
- Các Nội Dung Cơ Bản Về Hội Nhập Quốc Tế Trong Lĩnh Vực Ngân Hàng
- Lý Thuyết Liên Quan Đến Năng Lực Cạnh Tranh Của Ngân Hàng Thương Mại Trong Bối Cảnh Hội Nhập
- Vai Trò Của Việc Ổn Định Ngân Hàng Trong Bối Cảnh Hội Nhập
Xem toàn bộ 267 trang tài liệu này.
2.1.1. Khái niệm hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng
Để tìm hiểu khái niệm “Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng” cần tìm hiểu các khái niệm sau: “Toàn cầu hóa kinh tế”, “Khu vực hóa kinh tế”, “Hội nhập kinh tế quốc tế”, “Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ” để từ đó đưa ra khái niệm về “Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng”.
Theo tài liệu nghiên cứu và tổng hợp từ (Trung tâm Bồi dưỡng đại biểu dân cử):
Khái niệm toàn cầu hóa kinh tế là một quá trình trong quan hệ quốc tế làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau về mọi mặt của đời sống xã hội giữa các quốc gia. Trong khi đó, khu vực hóa kinh tế lại là hiện tượng trong quan hệ kinh tế quốc tế, bao gồm các hoạt động hợp tác kinh tế giữa một số nước tập hợp thành những nhóm khu vực (dưới dạng định chế / tổ chức) có mức độ liên kết kinh tế khác nhau.
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau tuy nhiên ở đây chỉ đề cập đến một khái niệm tổng hợp nhất về hội nhập kinh tế được các nhà nghiên cứu thường xuyên sử dụng, đó là “Hội nhập kinh tế là quá trình thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương chủ động gắn kết nền kinh tế thị trường của từng nước với kinh tế khu vực và kinh tế thế giới” (Balassa Bela, Richard D. Irwin Inc., Homewood, lllinois, 1961). Như vậy hội nhập quốc tế thực chất cũng là sự chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa. Nói cách khác, hội nhập bao hàm các nỗ lực về mặt chính sách và thực hiện của
các quốc gia để tham gia vào các định chế, tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu. Hội nhập kinh tế quốc tế có nghĩa là tham gia vào cuộc cạnh tranh kinh tế ở cả trong và ngoài nước vì quá trình hội nhập làm cho nền kinh tế mỗi nước ngày càng liên kết chặt chẽ với các nền kinh tế thành viên khác, từ đó làm cho nền kinh tế thế giới phát triển theo hướng tạo ra một thị trường chung thống nhất trong đó những cản trở đối với sự giao lưu và hợp tác quốc tế dần dần giảm và mất đi, sự cạnh tranh trở nên gay gắt.
Khái niệm hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng, có thể đưa ra một khái niệm chung nhất đó là “Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng là quá trình chủ động gắn kết hoạt động ngân hàng của mỗi nước với hoạt động của hệ thống ngân hàng trong khu vực và thế giới, thông qua những nỗ lực mở cửa và tự do hóa hoạt động ngân hàng trong nước với điều kiện các hoạt động đó phải phù hợp với thông lệ, với luật pháp quốc tế. Hoạt động ngân hàng phải tuân thủ theo quy luật thị trường và các nguyên tắc kinh doanh quốc tế, hoạt động ngân hàng được thực hiện theo tín hiệu thị trường do thị trường quyết định mà không bị ngăn chặn bởi các biện pháp quản lý hành chính, lãi suất, tỷ giá, hoạt động tín dụng …”
Đối với hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ được hiểu là quá trình mà các nước, các khu vực thực hiện mở cửa cho sự tham gia của các yếu tố bên ngoài vào lĩnh vực tài chính - tiền tệ, bao gồm công nghệ, vốn đầu tư, tín dụng và lao động có trình độ chuyên môn cao. Hội nhập quốc tế về tài chính - tiền tệ là thực hiện quá trình tự do hóa tài chính (xóa bỏ các định hướng, hạn chế, hay ràng buộc trong việc phân bổ nguồn lực tài chính).
2.1.2. Khái niệm tự do hóa tài chính
Trong bối cảnh hiện nay, xu thế tự do hóa tài chính đã và đang trở thành xu thế lớn của kinh tế học hiện đại và được thể hiện trên thực tiễn qua nhiều khía cạnh. Sự phát triển kinh tế của các quốc gia phụ thuộc vào rất nhiều chính sách cũng như cơ cấu tài chính của quốc gia đó. Tự do hóa tài chính đã và đang là xu thế của kinh tế học hiện đại.
Theo Quĩ Tiền tệ Quốc tế (IMF) "Tự do hoá tài chính là quá trình giảm thiểu và cuối cùng là huỷ bỏ sự kiểm soát của Nhà nước đối với hoạt động của hệ thống tài chính quốc gia, làm cho hệ thống này hoạt động tự do hơn và hiệu quả hơn theo qui luật thị trường".
Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tự do hóa tài chính là quá trình giảm thiểu và cuối cùng là hủy bỏ sự kiểm soát của Nhà nước đối với hoạt động của hệ thống tài chính quốc
gia, làm cho hệ thống này hoạt động tự do hơn và hiệu quả hơn theo quy luật thị trường. Nội dung cơ bản của tự do hóa tài chính bao gồm: tự do hóa lãi suất, tự do hóa hoạt động cho vay của các NHTM, tự do hóa hoạt động ngoại hối, tự do hóa hoạt động của các tổ chức tài chính trên thị trường tài chính.
Bản chất của tự do hóa tài chính là hoạt động tài chính theo cơ chế nội tại vốn có của thị trường và chuyển vai trò điều tiết tài chính từ Chính phủ sang thị trường, mục tiêu là tìm ra sự phối hợp có hiệu quả giữa Nhà nước và thị trường trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế – xã hội. Do đó, kết quả của tự do hóa tài chính thườngđược thể hiện bằng tỷ số giữa tiền mở rộng (tiền mặt và tiền gửi trong hệ thống NHTM) trên thu nhập quốc dân.
Tự do hóa tài chính là một khái niệm rộng và đa đạng, hàm ý: Thứ nhất, tự do hóa tài chính đó là sự xóa bỏ đi các hạn chế, định hướng hay ràng buộc trong quá trình phân bổ nguồn lực tín dụng. Mọi điều tiết trong quá trình phân bổ này được đặt trên nền tảng cơ chế giá; nghĩa là các tổ chức tài chính được quyền tự do xác định lãi suất – tiền gửi và cho vay. Điều này cũng bao hàm việc xóa bỏ mức trần lãi suất cũng như các ràng buộc khác trong việc sử dụng nguồn vốn huy động được (ví dụ như các khoản tín dụng ưu đãi). Thứ hai, tự do hóa tài chính cũng đồng nghĩa với việc mở rộng cạnh tranh trong các hoạt động tài chính mang tính chất trung gian, điều này đồng nghĩa với việc chấm dứt sự phân biệt đối xử về pháp lý giữa những loại hình hoạt động khác nhau.
2.1.3. Khái niệm cạnh tranh và năng lực cạnh tranh Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh là sự tranh đua giữa những cá nhân, tập thể, đơn vị kinh tế có chức năng như nhau thông qua các hành động, nổ lực và các biện pháp để giành phần thắng trong cuộc đua, để thỏa mãn các mục tiêu của mình. Các mục tiêu này có thể là thị phần, lợi nhuận, hiệu quả, an toàn, thương hiệu, … Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng là một loại doanh nghiệp đặc biệt, nhằm “mua” và “bán” một lợi ích có liên quan tới tài chính song không tồn tại dưới dạng vật chất. Đã là doanh nghiệp thì khái niệm cạnh tranh của doanh nghiệp cũng đúng cho các NHTM.
Theo K.Marx (1977): Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng hàng hóa
để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Khi nghiên cứu sâu hơn về bản chất của cạnh tranh tư bản chủ nghĩa trong nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa, Marx cho rằng quy luật cạnh tranh cơ bản là sự điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận bình quân giữa các ngành. Theo Michael E. Porter (1980): Cạnh tranh là giành lấy thị phần. Bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả của quá trình cạnh tranh là sự bình quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có thể giảm đi. Ngoài ra, khi đề cập đến cạnh tranh theo cấp độ doanh nghiệp, M.E.Porter (1996) lý giải đó là việc đấu tranh hay giành giật giữa các đối thủ về khách hàng, thị phần hay nguồn lực của các doanh nghiệp. Bản chất của cạnh tranh trong giai đoạn mới không phải là sự tiêu diệt, loại trừ lẫn nhau mà chính là việc gia tăng giá trị hay tạo ra sự mới lạ, độc đáo hơn cho hàng hóa, dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Để từ đó khách hàng lựa chọn mình chứ không phải đến với đối thủ cạnh tranh. Sau đó, trong cuốn Competitive Advantage (1998), Porter khẳng định tầm quan trọng của cạnh tranh quyết định thành công hay thất bại của một công ty. Ông cho rằng cạnh tranh giúp xác định sự phù hợp trong hoạt động mà qua đó nâng cao hiệu quả của công ty ở một số mặt cụ thể như: sự đổi mới, gắn kết văn hóa, hoạt động tốt hơn,…
Một khái niệm nữa về cạnh tranh được hai nhà kinh tế học P.A. Samuelson và W.D.Nordhaus (1985) đưa ra: “Cạnh tranh là sự kình địch giữa các doanh nghiệp với nhau nhằm để giành khách hàng hoặc thị trường”
Năng lực cạnh tranh
Theo Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) thì năng lực cạnh tranh (NLCT) được hiểu là khả năng, năng lực mà doanh nghiệp có thể duy trì vị trí của nó một cách lâu dài trên thị trường cạnh tranh, đảm bảo thực hiện một tỉ lệ lợi nhuận ít nhất bằng tỉ lệ đòi hỏi tài trợ cho những mục tiêu của doanh nghiệp, đồng thời đạt được những mục tiêu doanh nghiệp đặt ra. NLCT có thể được chia thành 3 cấp:
+ NLCT quốc gia: Là năng lực của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, đảm bảo ổn định kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống của người dân.
+ NLCT của doanh nghiệp: Là khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong và ngoài nước. NLCT của doanh nghiệp thể hiện qua hiệu quả kinh doanh, lợi nhuận và thị phần mà doanh nghiệp đó đạt được.
+ NLCT của sản phẩm và dịch vụ: đo bằng thị phần của sản phẩm dịch vụ trên thị trường. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ phụ thuộc vào lợi thế cạnh tranh của nó, dựa vào chất lượng, tính độc đáo, dịch vụ, yếu tố công nghệ chứa trong sản phẩm dịch vụ đó.
Theo Michael Porter: “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là tổng hợp khả năng nắm giữ và chiếm lĩnh thị trường của chủ thể tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh để đạt được hiệu quả tối ưu trong một môi trường kinh doanh cụ thể”. NLCT được đánh giá dựa trên năng suất, giá trị của hàng hoá dịch vụ làm ra tính trên một đơn vị nhân lực, vốn và tài nguyên của một quốc gia. Năng suất cao tạo ra mức lương cao (cho người lao động), đồng tiền mạnh (cho một quốc gia), lợi nhuận hấp dẫn trên một đồng vốn (cho doanh nghiệp) và cuối cùng là mức sống cao (cho người dân).
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp, nhưng hoạt động ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc biệt, đó là kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ tài chính có liên quan. NLCT của ngân hàng thương mại là sự tổng hợp tất cả khả năng của ngân hàng đáp ứng được nhu cầu khách hàng về việc cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng có chất lượng cao, đa dạng và phong phú, tiện ích và thuận lợi, có tính độc đáo so với các sản phẩm, dịch vụ cùng loại trên thị trường, tạo ra được lợi thế cạnh tranh, làm tăng lợi nhuận hàng năm của các ngân hàng, tạo được uy tín, thương hiệu và vị thế cao trên thị trường, có khả năng chống đỡ và vượt qua những biến động bất lợi của môi trường kinh doanh.
Như vậy, thông qua các nghiên cứu và định nghĩa của các nhà kinh tế học nêu trên, khái niệm về NLCT của NHTM có thể được rút ra như sau: “NLCT của hệ thống NHTM là khả năng ngân hàng tạo ra được lợi thế cạnh tranh, có năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn hơn, tạo ra lợi nhuận cao và phát triển bền vững”
2.1.4. Khái niệm ổn định ngân hàng
Khái niệm ổn định ngân hàng được dựa trên khái niệm ổn định tài chính. Tuy nhiên, hiện nay trên thế giới, có rất nhiều định nghĩa về ổn định tài chính, đặc trưng như:
Ổn định hệ thống tài chính nghĩa là một hệ thống tài chính mà trong đó các chủ thể - trung gian tài chính, thị trường tài chính và hạ tầng tài chính thực hiện tốt các chức năng của mình và có khả năng chống đỡ được các cú sốc tiềm ẩn (Ngân hàng Trung ương Thụy Sỹ).
Ổn định tài chính là khả năng vận hành tốt các chức năng chính của hệ thống tài chính, kể cả trong thời kỳ kinh tế căng thẳng và thời kỳ điều chỉnh cơ cấu nhằm giúp phân bổ một cách có hiệu quả các nguồn lực và rủi ro tài chính cũng như tạo nền tảng hạ tầng tài chính hiệu quả (Ngân hàng Trung ương Đức).
Ổn định hệ thống tài chính là 1 trạng thái mà trong đó các trung gian tài chính, thị trường và hạ tầng tài chính phân bổ tốt các luồng vốn giữa tiết kiệm và đầu tư, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (Ngân hàng Trung ương Úc).
Ổn định tài chính hàm ý việc xác định rủi ro trong hệ thống tài chính và hành động để giảm thiểu chúng (Ngân hàng Trung ương Anh).
Ổn định tài chính là một trạng thái trong đó hệ thống tài chính gồm các trung gian tài chính, thị trường và hạ tầng tài chính có khả năng chống đỡ được các cú sốc và những rủi ro do sự mất cân đối tài chính gây ra từ đó làm giảm bớt khả năng sụp đổ của các trung gian tài chính vốn có tác động tiêu cực đối với việc phân bổ tiết kiệm và đầu tư (Ngân hàng Trung ương Châu Âu).
Một hệ thống tài chính ổn định và an toàn là một hệ thống có thể trụ vững được trước những biến động bất thường của nền kinh tế và trước các cú sốc tài chính nảy sinh từ bên trong hoặc bên ngoài hệ thống tài chính (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
Như vậy, thông qua các nghiên cứu và định nghĩa của các nhà kinh tế học nêu trên, khái niệm về ổn định ngân hàng có thể được rút ra như sau “Việc ngân hàng hoạt động có hiệu quả, có khả năng ứng phó tốt đối với những tác động bên trong và bên ngoài, trong hiện tại và cả tương lai, đặc biệt là các cú sốc của nền kinh tế mà vẫn duy trì được khả năng thanh toán cho các khoản nợ đến hạn, duy trì hoạt động một cách bình thường”.
2.2. Cơ sở lý thuyết
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, những đặc trưng trong cam kết của hiệp định thương mại CPTPP được đánh giá đây là hiệp định mở, tiếp cận thị trường toàn diện, hiệp định thương mại khu vực, gắn kết thị trường hoạt động chung toàn diện và tiến bộ trên phạm vi sâu, rộng … ảnh hưởng tới tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế. Các nội dung cam kết liên quan đến lĩnh vực tài chính ngân hàng cho thấy mức độ tự do hóa tài chính trong khuôn khổ CPTPP rất cao dù các nước thành viên được quyền chủ động thực hiện các biện pháp củng cố tính ổn
định tài chính và tính thống nhất của hệ thống tài chính của mình. Khi thực thi CPTPP, quá trình cạnh tranh giữa các nước trong khu vực, giữa các ngành nghề trong và ngoài nước là tất yếu, đồng thời ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ ổn định tài chính của mỗi thành viên trong khối CPTPP. Vì vậy cơ sở lý thuyết của luận án chủ yếu dựa trên các học thuyết kinh tế về hội nhập quốc tế, tự do hóa tài chính, lý thuyết cạnh tranh, lý thuyết ổn định trong lĩnh vực ngân hàng. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu dựa trên nền tảng lý thuyết kinh tế được nghiên cứu của nhiều nhà kinh tế học như John Maynard Keynes, Shaw và McKinnon, Adam Smith, Carl Menger, Eugen von Bohm – Bawerk, Friedrich von Wieser) … và lược khảo từ các kết quả nghiên cứu trước.
2.2.1. Lý thuyết tự do hóa tài chính trong hội nhập quốc tế về ngân hàng
Trong bối cảnh hội nhập CPTPP, các nghiên cứu liên quan về tự do hóa tài chính trong quá trình hội nhập quốc tế về ngành ngân hàng có vai trò rất quan trọng. Việc nghiên cứu này có ý nghĩa thiết thực giúp các nhà quản trị ngân hàng sẽ có chiến lược, định hướng đúng đắn trong việc xác định các cơ hội cũng như các rủi ro tiềm ẩn cho hoạt động của các ngân hàng trong quá trình hội nhập quốc tế.
2.2.1.1. Các quan điểm về tự do hóa tài chính
Trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, tự do hóa tài chính là xu thế tất yếu của mỗi quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Nhờ tự do hóa tài chính, nhiều nước đang phát triển đã thu hút được lượng vốn đầu tư rất lớn và tiếp nhận nền tảng công nghệ hiện đại từ các nước công nghiệp phát triển để mở rộng sản xuất kinh doanh và thúc đẩy xuất khẩu, gia tăng áp lực thúc đẩy cạnh tranh, tăng chất lượng các dịch vụ tài chính được cung cấp (xóa bỏ độc quyền). Tuy nhiên, dòng vốn vào tăng mạnh cũng như sự gia nhập của nhiều TCTC vào một thị trường cạnh tranh chung cũng cũng gây khó khăn cho các cơ quan quản lý tài chính trong việc duy trì ổn định tài chính và ngăn chặn nguy cơ đào thoát của dòng vốn đầu tư. Điều này đòi hỏi mỗi quốc gia phải thay đổi chiến lược, không chỉ dừng lại ở các biện pháp tái cơ cấu đơn thuần, nhất là về tài chính và đầu tư phát triển sản xuất trong bối cảnh các luồng tài chính bị kiểm soát chặt chẽ hơn, qua đó sẽ nhanh chóng tránh được những tác động tiêu cực từ bên ngoài. Hiện nay có hai quan điểm lớn về tự do hóa tài chính đang tồn tại và đối lập nhau:
Quan điểm thứ nhất: Quan điểm này cho rằng hệ thống tài chính có vai trò rất nhỏ bé trong sự phát triển kinh tế “thực”. Nó chỉ đơn thuần cung cấp cho khu vực tư nhân cơ hội hợp