Sự Cần Thiết Nghiên Cứu Về Năng Lực Cạnh Tranh Và Ổn Định Ngân Hàng Trong Bối Cảnh Hội Nhập Cptpp.


lực cần thiết để kết thúc đàm phán hiệp định thành công. CPTPP được xác định là một hiệp định mang tính bước ngoặc về thương mại của thế kỷ 21, thiết lập một tiêu chuẩn mới cho thương mại toàn cầu và đưa ra những vấn đề thuộc thế hệ mới có khả năng tăng cường năng lực cạnh tranh của các nước thành viên CPTPP trong nền kinh tế toàn cầu.

Khi có hiệu lực, CPTPP sẽ loại bỏ 11.000 dòng thuế của các bên và có khả năng sẽ đóng vai trò như một khuôn mẫu cho các điều ước mậu dịch trong tương lai. Nội dung CPTPP đã xây dựng được khung tổng thể của một hiệp định thương mại thế hệ mới, góp phần tăng cường hơn nữa mối quan hệ thương mại và đầu tư, tạo cơ sở cho việc hình thành một Khu vực thương mại tự do trên toàn khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, đồng thời hỗ trợ việc làm, tăng trưởng kinh tế, nâng cao mức sống tại các quốc gia.

Theo (Vụ Chính sách thương mại đa biên, 2018), các nội dung cam kết trong hiệp định CPTPP mang 5 đặc trưng chính như sau:

Thứ nhất, Tiếp cận thị trường toàn diện: bãi bỏ thuế quan và các hàng rào khác đối với thương mại hàng hóa và đầu tư giữa các nước thành viên, tạo ra và duy trì việc làm ngày càng nhiều. Mục tiêu của CPTPP là thúc đẩy hàng hóa của các nước thành viên được tiếp cận thị trường của nhau một cách toàn diện, miễn thuế cũng như các hạn chế về dịch vụ được đồng loạt xóa bỏ nhằm tạo ra cơ hội mới cho người lao động và doanh nghiệp cũng như những lợi ích trực tiếp cho người tiêu dùng.

Thứ hai, Hiệp định khu vực toàn diện: các nước tham gia CPTPP nhất trí xây dựng một biểu thuế thống nhất cũng như các quy tắc xuất xứ chung để giúp các doanh nghiệp tận dụng được hiệp định một cách dễ dàng hơn. Cách tiếp cận mang tính khu vực này sẽ giúp thúc đẩy mạng lưới thương mại khu vực, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và khuyến khích sử dụng các sản phẩm đầu vào của CPTPP. Điều này góp phần tạo thuận lợi cho sự phát triển sản xuất và chuỗi cung ứng giữa các thành viên trong CPTPP, đồng thời hỗ trợ mục tiêu tạo việc làm, nâng cao mức sống, cải thiện phúc lợi xã hội và tăng cường phát triển bền vững ở các nước thành viên.

Thứ ba, Các vấn đề thương mại xuyên suốt: hình thành khung hiệp định trên cơ sở những thỏa thuận đã thực hiện trong khuôn khổ APEC và các diễn đàn khác và bằng việc đưa vào CPTPP có 4 vấn đề mới và mang tính xuyên suốt bao gồm:


Gắn kết môi trường chính sách: các cam kết sẽ thúc đẩy thương mại giữa các nước thành viên thông qua việc tạo môi trường trao đổi thương mại gắn kết và hiệu quả giữa các nước trong CPTPP.

Tạo thuận lợi thúc đẩy năng lực cạnh tranh và kinh doanh: các cam kết sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh trong nước và khu vực của từng nền kinh tế CPTPP và thúc đẩy hội nhập kinh tế cũng như tạo thêm việc làm thông qua phát triển sản xuất và chuỗi cung ứng khu vực;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 267 trang tài liệu này.

Doanh nghiệp vừa và nhỏ: các cam kết sẽ giải quyết những quan ngại của doanh nghiệp vừa và nhỏ về các vấn đề khó khăn trong việc hiểu và vận dụng các hiệp định thương mại bên cạnh đó khuyến khích họ giao thương quốc tế;

Phát triển: đẩy mạnh tự do hóa thị trường một cách toàn diện và mạnh mẽ, cải thiện tình hình thương mại và đầu tư, tăng cường kỷ cương và các cam kết khác, bao gồm việc thiết lập các cơ chế giúp các thành viên trong CPTPP thực thi hiệu quả và tận dụng được tối đa những lợi ích mà Hiệp định mang lại, qua đó góp phần tăng cường vai trò của những thể chế quan trọng đối với quản lý và phát triển kinh tế. Góp phần đáng kể vào việc thúc đẩy những ưu tiên phát triển kinh tế của từng thành viên CPTPP;

Năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh tham gia Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương - 3

Thứ tư, Những vấn đề mới trong thương mại: tích cực thúc đẩy thương mại và đầu tư đối với cá sản phẩm và dịch vụ mang tính sáng tạo, trong đó có nền kinh tế kỹ thuật số và công nghệ xanh, đảm bảo một môi trường kinh doanh lành mạnh trên toàn bộ khu vực CPTPP.

Thứ năm, Hiệp định mở: cho phép cập nhật hiệp định phù hợp khi cần thiết để giải quyết các vấn đề thương mại nảy sinh trong tương lai cũng như các vấn đề mới phát sinh trong quá trình mở rộng Hiệp định để kết nạp thêm các thành viên mới. Nói cách khác, mục tiêu cuối cùng của Hiệp định CPTPP là mở rộng cho các quốc gia khác trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Các nhóm đàm phán đang tham vấn với những nước bày tỏ quan tâm đến việc tham gia hiệp định, nhằm giúp các nước này nhận thức được các mục tiêu CPTPP đã nhất trí theo đuổi. Tính mở của CPTPP có ưu điểm là chỉ bằng đàm phán CPTPP, một nước có thể cùng có FTA với nhiều nước đối tác. Đây cũng chính là lý do các nước tham gia khó đạt được sự nhất trí và thời gian đàm phán bị kéo dài.

Hoạt động ngân hàng là huyết mạch của nền kinh tế, chính vì vậy việc thực thi các cam kết trong CPTPP sẽ có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến lĩnh vực tài chính ngân hàng các


nước thành viên nói chung và các ngân hàng thương mại Việt Nam nói riêng. Nhìn chung, các nội dung được cam kết thuộc lĩnh vực dịch vụ tài chính của CPTPP hướng tới đẩy mạnh sự phát triển của thị trường dịch vụ tài chính ở các nước thành viên như: Mở rộng cam kết về mở cửa thị trường đi kèm với cơ chế minh bạch hóa tạo cơ hội tiếp cận thị trường tốt hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài; Áp dụng cơ chế bảo hộ đầu tư nhằm bảo đảm đầy đủ lợi ích của các nhà đầu tư; Bảo đảm không gian chính sách để thực hiện các biện pháp quản lý thận trọng nhằm xây dựng một nền tài chính vĩ mô ổn định. Đối với Việt Nam, các cam kết trong hiệp định CPTPP mở rộng (so với WTO) đối với một số loại hình dịch vụ mới như: Mở cửa dịch vụ nhượng tái bảo hiểm qua biên giới; Dành đối xử quốc gia cho các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán nước ngoài đối với một số dịch vụ như xử lý dữ liệu tài chính qua biên giới; dịch vụ tư vấn và các dịch vụ phụ trợ qua biên giới liên quan tới giao dịch tài khoản tự doanh hoặc tài khoản của khách hàng; Mở cửa dịch vụ quản lý danh mục đầu tư qua biên giới; Tăng cường không gian chính sách và sự linh hoạt các quy định thông qua bổ sung các điều khoản mới về “rút lui”, “gia nhập” và “rà soát lại” hiệp định.

Như vậy, mức độ tự do hóa tài chính trong khuôn khổ CPTPP rất cao dù các nước thành viên được quyền chủ động thực hiện các biện pháp củng cố tính ổn định tài chính và tính thống nhất của hệ thống tài chính của mình. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng như các nước thành viên được áp dụng các ngoại lệ cần thiết, gồm các biện pháp thận trọng bảo vệ an ninh quốc gia, quyền lợi và thông tin cá nhân; chính sách về tỷ giá, tiền tệ nhằm bảo đảm môi trường đầu tư ổn định, an toàn. Đối với lĩnh vực dịch vụ tài chính trong CPTPP, mặc dù yêu cầu cung cấp nhiều cơ hội tiếp cận thị trường và đầu tư qua biên giới nhưng vẫn đảm bảo rằng, các nước trong CPTPP có đủ năng lực điều hành thị trường và các tổ chức tài chính cũng như thực hiện các biện pháp khẩn cấp trong trường hợp khủng hoảng.

Ngành Ngân hàng Việt Nam đóng vai trò trung gian rất quan trọng trong việc kết nối mọi hoạt động của nền kinh tế, là tiền đề của phát triển kinh tế xã hội, cũng sẽ không nằm ngoài các tác động, ảnh hưởng từ CPTPP. Cùng với sự vận động phát triển của toàn nền kinh tế và sự phát triển mạnh mẽ của các DN xuất khẩu có lợi thế cạnh tranh (như dệt may, da giày, linh kiện điện tử …), ngành ngân hàng sẽ phát huy tối đa vai trò là cầu nối, kênh dẫn vốn hiệu quả giữa nền kinh tế và các doanh nghiệp, đồng thời mở rộng hệ thống thanh toán quốc tế giúp hỗ


trợ doanh nghiệp Việt Nam trong việc mở rộng hoạt động tới các thị trường mới. Qua đó, hiện thực hóa các cơ hội do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, ngành ngân hàng cũng cần phải chủ động đánh giá các thách thức khó khăn, các sức ép cạnh tranh phải đối mặt để có những định hướng, giải pháp phù hợp cho sự phát triển ổn định và bền vững trước bối cảnh mới.

1.1.2. Tổng quan nghiên cứu

Có nhiều nghiên cứu về năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định ngân hàng trong và ngoài nước được thực hiện. Nhiều phương pháp đo lường và mô hình nghiên cứu được đề cập tùy theo đặc trưng của quốc gia nghiên cứu.

Để đo lường năng lực cạnh tranh và tác động của các yếu tố đến năng lực cạnh tranh ngân hàng, các phương pháp đo lường chủ yếu dựa trên 3 chỉ số: phương pháp Panzar và Rosse (1987) sử dụng chỉ số H, Lerner, Bone. Để đo lường mức độ ổn định ngân hàng, ban đầu các nghiên cứu tập trung theo phương pháp phân tích tỷ lệ (ratio analysis), sau đó là phương pháp phân tích đơn biến, phương pháp phân tích kết hợp các chỉ số được nhà kinh tế học Edward I (1968). Nghiên cứu của Altman được tiến hành ra để dự báo xác suất phá sản của doanh nghiệp kế thừa từ chỉ số Z-Score của (Edward I. Altman, 1968), hàng loạt các nghiên cứu thực nghiệm còn sử dụng thêm các chỉ số khác để đo lường toàn diện hơn ổn định ngân hàng như: ROA, ROE, RARROA, RARROE. Chỉ số thống kê H đã được nhiều học giả nghiên cứu sử dụng như: (Claessens, 2001), (Carbó, S, Humphrey, D, Maudos, 2009), (Soedarmono, W., Machrouh, 2011). Chỉ số Lerner cũng được nhiều học giả trên thế giới sử dụng như: nghiên cứu của (Berger et al, 2009), (Fungáčová et al, 2013), (Fu et al, 2014)…

Phần lớn các nghiên cứu ở Việt Nam về năng lực cạnh tranh sử dụng chỉ số H và Lerner, các nghiên cứu gần đây chủ yếu dùng chỉ số Lerner bởi tính thuận lợi trong việc thu thập dữ liệu và sự phù hợp của kết quả tính toán so với tình hình thực tế Việt Nam. Các nghiên cứu về mức độ ổn định ngân hàng tại Việt Nam sử dụng chỉ số Zscore và thêm các chỉ số khác để đo lường toàn diện hơn ổn định ngân hàng như: ROA, ROE, RARROA, RARROE

Các nghiên cứu về hiệp định CPTPP trong và ngoài nước cho ngành ngân hàng chủ yếu được thực hiện bằng phương pháp nghiên cứu định tính và nội dung nghiên cứu tập trung xác định những nội dung cam kết liên quan, những cơ hội, thách thức mà ngành ngân hàng sẽ đối mặt khi tham gia CPTPP. Có một vài nghiên cứu thực nghiệm trong và ngoài nước về tác động


từ sự gia nhập của các tổ chức tài chính nước ngoài đến thị trường ngân hàng nội địa sau kí kết các hiệp định FTA nói chung.

Tại Việt Nam, tác giả chưa tìm được nghiên cứu nào “đo lường năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh tham gia hiệp định CPTPP”. Thông qua việc xác định thực trạng tình hình hiện tại của các ngân hàng thương mại Việt Nam, so sánh với hệ thống tài chính giữa các nước thành viên, kết hợp kết quả đo lường thực nghiệm làm căn cứ đề xuất hàm ý chính sách hữu hiệu trong bối cảnh hội nhập CPTPP. Các nghiên cứu về năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định ngân hàng có xét tới yếu tố sự gia nhập của ngân hàng nước ngoài vào Việt Nam rất ít. Tác giả cũng nhận thấy rằng hầu như chưa có một cơ sở lý thuyết nền tảng về cạnh tranh và ổn định ngân hàng trong bối cảnh hội nhập quốc tế được tập hợp và trình bày đầy đủ, mang tính khoa học đóng vai trò như lý thuyết nền nghiên cứu tại Việt Nam.

1.1.3. Khe hở nghiên cứu

Nhìn chung, những vấn đề mà các sản phẩm khoa học trước đó đã đề cập chủ yếu: Đã khắc hoạ tiến trình Việt Nam tham gia ký kết TPP và CPTPP và những vấn đề được đặt ra khi Việt Nam tham gia Hiệp định này; Các nhà nghiên cứu chính sách thương mại quốc tế đã đưa ra những khuyến nghị đối với cơ quan có thẩm quyền của Chính phủ về những vấn đề phái đoàn đàm phán của Việt Nam cần lưu ý, cũng như là Hiệp định CPTPP mang lại những cơ hội và thách thức nào đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung; Đề xuất giải pháp: Chính phủ phải làm gì? Cộng đồng doanh nghiệp phải làm gì? Để nắm bắt cơ hội, hạn chế khó khăn thách thức khi Hiệp định CPTPP được ký kết và chính thức có hiệu lực thực thi đối với Việt Nam.

Rất ít tài liệu và công trình nghiên cứu sâu về năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định của NHTM VN trong bối cảnh hội nhập CPTPP, một hiệp định được đánh giá có phạm vi ảnh hưởng sâu, rộng, mức độ tự do hóa tài chính trong bối cảnh hội nhập quốc tế được mở rộng đánh kể thông qua các nội dung cam kết giữa 11 nước trong khối thành viên. Bên cạnh đó, xu thế tự do hóa tài chính trong bối cảnh hội nhập quốc tế, với các nội dung cam kết toàn diện và tiến bộ trong CPTPP, việc xác định và đánh giá mức độ ảnh hưởng từ sự hiện diện của các tổ chức tài chính (TCTC) nước ngoài tại Việt Nam là vô cùng thiết thiết. Đây là cơ sở hàm ý chính sách để các nhà hoạch định chính sách cũng như ban ngành chức năng liên quan đưa ra


những quyết sách đúng đắn dựa theo phạm vi, nội dung đã ký kết, thỏa thuận trong quá trình đàm phán trước đó. Từ đó đề xuất các khuyến nghị và giải pháp cho các ngân hàng Việt Nam tăng cường năng lực của mình để nắm lấy cơ hội và vượt qua được những thách thức CPTPP mang lại.

Nhìn chung, các nghiên cứu trước còn có một số khe hở nghiên cứu như sau:

Thứ nhất, khoảng trống về không gian và thời gian nghiên cứu: Các nghiên cứu trước đây chủ yếu trong giai đoạn trước năm 2016: Hiệp định CPTPP chưa được ký kết, vấn đề xử lý nợ xấu và tái cấu trúc đang trong giai đoạn thực hiện, quy mô và thị trường hoạt động của ngân hàng nước ngoài (NHNNg) tại Việt Nam còn nhiều rào cản và hạn chế, một số ngân hàng thương mại Việt Nam (NHTM VN) đang trong giai đoạn thí điểm thực hiện theo chuẩn Base

2. Vì vậy nghiên cứu được tiến hành trên dữ liệu thu thập từ 31 NHTM tại Việt Nam và 11 NHTM có vốn nước ngoài (NH liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài) giai đoạn 2010 – 2018. Thứ hai, khoảng trống về phương pháp nghiên cứu: Phần lớn các nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng để đo lường mức độ ổn định tài chính hoặc đo lường năng lực cạnh tranh của NHTM VN. Các nghiên cứu về ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh hội nhập CPTPP chủ yếu là nghiên cứu bằng phương pháp định tính thông qua một số bài báo, nhận định chung về thực trạng của ngân hàng Việt Nam hoặc dự đoán những cơ hội và thách thức mà CPTPP mang lại cho Việt Nam. Để đánh giá những cơ hội – thách thức đến với hoạt động NHTM VN chủ yếu là các nghiên cứu định tính dựa trên dữ liệu thứ cấp thu thập được. Trong nghiên cứu này, luận án sử dụng phối hợp cả hai phương pháp định tính và định lượng nhằm tăng tính vững làm cơ sở lập luận để xác định mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến tính ổn định và khả năng cạnh tranh của NHTM VN. Từ đó là cơ sở để nắm bắt hiệu quả các cơ hội cũng như kịp

thời ứng phó các thách thức từ các cam kết về lĩnh vực ngân hàng trong CPTPP.

Thứ ba, khoảng trống về các yếu tố đo lường: Trong bối cảnh hội nhập CPTPP, NLCT và mức độ ổn định ngân hàng sẽ chịu ảnh hưởng nhất định từ các tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam, rất ít nghiên cứu trong nước đo lường mức độ ảnh hưởng từ sự hiện diện NHNNg đến NLCT và mức độ ổn định của NHTM VN vì vậy yếu tố số lượng chi nhánh NHNNg và tỷ lệ tổng tài sản của các NHNNg trên toàn hệ thống tín dụng được đưa vào mô hình nghiên cứu.


Thứ tư, khoảng trống về nội dung nghiên cứu: Hầu hết các nghiên cứu tập trung xác định mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến NLCT và mức độ ổn định của các NHTM VN nói chung hoặc nghiên cứu về các cơ hội – thách thức của NHTM VN khi tham gia CPTPP. Tuy nhiên chưa có các nghiên cứu chuyên sâu vào vấn đề đo lường NLCT và mức độ ổn định của các NHTM VN trong bối cảnh hội nhập CPTPP, dựa vào một số chỉ tiêu vĩ mô đặc trưng để so sánh giữa hệ thống NHTM VN với hệ thống tài chính của 10 thành viên còn lại trong CPTPP, từ đó làm căn cứ thiết thực xác định triển vọng và áp lực cạnh tranh nhằm góp phần cho các nhà quản trị ngân hàng những hàm ý chính sách phù hợp nâng cao NLCT, giữ vững ổn định của các NHTM VN trong bối cảnh hội nhập CPTPP.

Đó là những khe hở nghiên cứu mà tác giả sẽ lấp đầy trong luận án, cũng là những điểm mới của đề tài.

1.1.4. Sự cần thiết nghiên cứu về năng lực cạnh tranh và ổn định ngân hàng trong bối cảnh hội nhập CPTPP.

Ngày nay, xu thế tự do hóa tài chính trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế nhằm thúc đẩy mở rộng hoạt động thương mại ra thị trường thế giới đang được ủng hộ mạnh mẽ. Hoạt động thương mại giữa các nước gắn liền với hoạt động của hệ thống ngân hàng của mỗi quốc gia. Việc các hiệp định thương mại được thực thi theo các nội dung cam kết sẽ tác động rất lớn đến nền kinh tế quốc gia nói chung và các ngân hàng thương mại Việt Nam nói riêng. Việt Nam được xem là một trong những quốc gia có nhiều hiệp định thương mại tự do kí kết nhất hiện nay. Trong đó, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương có quy mô lớn được đánh giá mang lại nhiều tiềm năng phát triển cho 11 thành viên, trong đó có Việt Nam.

Đối với Việt Nam, việc ký kết thành công hiệp định CPTPP là bước ngoặc lớn đánh dấu cột mốc quan trọng cho sự chuyển mình của nền kinh tế nói chung và lĩnh vực tài chính ngân hàng nói riêng. Ngành ngân hàng đóng vai trò huyết mạch của nền kinh tế quốc gia. Trong toàn bộ những nội dung được ký kết có liên quan trực tiếp đến lĩnh vực tài chính ngân hàng, kì vọng sẽ mang đến những triển vọng lớn về mở rộng đầu tư và dịch vụ tài chính mới song cũng là sức ép cạnh tranh bắt buộc các ngân hàng thương mại Việt Nam phải tự điều chỉnh, cơ cấu lại phù hợp với tình hình mới.


Với các cam kết mở rộng xóa bỏ rào cản gia nhập giữa các nước thành viên trong khối CPTPP chắc chắn sẽ có sự gia nhập từ các tổ chức tài chính nước ngoài với quy mô lớn, trình độ chuyên môn cao, công nghệ tiên tiến và loại hình dịch vụ đa dạng sẽ tiến vào thị trường Việt Nam. Đã có nhiều nghiên cứu thực nghiệm cho thấy khi có sự hiện diện của các tổ chức tài chính nước ngoài sẽ có nhiều tác động trực tiếp và gián tiếp đến hệ thống ngân hàng thương mại trong nước, đặc biệt ở 2 hiệu ứng: hiệu ứng lan tỏa làm gia tăng mức sinh lợi và làm giảm chi phí hoạt động; còn hiệu ứng cạnh tranh sẽ làm giảm mức sinh lời và chi phí hoạt động. (Berger and Hannan, 1998). Điều này có thể sẽ là áp lực cạnh tranh hay tác động gây bất ổn ngân hàng nhưng đồng thời cũng có thể là cơ hội tiếp cận các tiến bộ từ cộng đồng quốc tế cho các ngân hàng thương mại nội địa. Vì vậy, để nắm bắt các cơ hội và kịp thời ứng phó thách thức mang lại từ hiệp định CPTPP, các ngân hàng thương mại Việt Nam cần phải tự xác định thực trạng năng lực cạnh tranh, mức độ ổn định trong hiện tại, dự đoán được những áp lực cạnh tranh cũng như các nguy cơ bất ổn để có chiến lược ứng phó thách thức, nâng cao năng lực cạnh tranh, củng cố giữ vững và gia tăng mức độ ổn định trong hoạt động ngân hàng trước bối cảnh hội nhập CPTPP.

Khi CPTPP được thực thi đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế thì hoạt động của hệ thống ngân hàng các nước trong khu vực sẽ có những thay đổi theo nội dung cam kết chung. Mức độ ổn định tài chính của các NHTM VN cũng chịu ảnh hưởng bởi tác động của việc mở rộng thị trường, sự gia nhập của các tổ chức tài chính nước ngoài vào Việt Nam và ngược lại, áp lực cạnh tranh từ các tổ chức tài chính trong và ngoài nước. Hội nhập quốc tế về ngân hàng giúp các NHTM trong nước thông qua môi trường cạnh tranh ngày càng tự do hơn và phù hợp với thông lệ quốc tế. Đồng thời giúp ngân hàng trong nước cần nhận thức được tình hình mới để tự nâng cao, hoàn thiện nhằm đương đầu với cạnh tranh và duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính ngân hàng trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới. Do đó, đề tài “NĂNG LỰC CẠNH TRANH VÀ MỨC ĐỘ ỔN ĐỊNH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH THAM GIA HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN

VÀ TIẾN BỘ XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG” được tác giả chọn làm nội dung nghiên cứu.

Thông qua việc đo lường năng lực cạnh tranh, mức độ ổn định của các NHTM VN, xác định mức độ và chiều hướng tác động của các yếu tố đặc trưng nội tại của ngân hàng, yếu tố

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 12/05/2023