Lý Luận Cơ Bản Về Năng Lực Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại;


TMCP Kỹ thương Việt Nam được chú trọng nghiên cứu một cách toàn diện từ thực trạng đến việc đề xuất các giải pháp hợp lý

Phạm vi nghiên cứu:

- Về nội dung: hoạt động tín dụng của NHTM bao gồm 2 mặt, huy động vốn và cấp tín dụng, luận án tập trung nghiên cứu về RRTD, QTRRTD và năng lực quản trị rủi ro tín tại Ngân hàng thương mại ở khâu cấp tín dụng

- Về không gian: Luận án tập trung nghiên cứu năng lực quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam.

- Về thời gian: Phân tích thực trạng QTRR và năng lực QTRRTD tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam giai đoạn 2014 - 2019. Giải pháp thực hiện theo lộ trình đến năm 2030.

6. Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu và trả lời các câu hỏi nêu trên, luận án sử dụng kết hợp các phương pháp sau:

- Phương pháp luận khoa học: duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là phương pháp tiền đề được kết hợp với các phương pháp khác để chỉ ra một cách biện chứng logic trong nghiên cứu lý luận và thực tiễn tại các NHTM

- Phương pháp thống kê: Thu thập dữ liệu sơ cấp, thứ cấp liên quan đến quản trị rủi ro tín dụng tại Techcombank theo chuỗi thời gian từ các báo cáo nội bộ, báo cáo của các cơ quan quản lý Nhà nước và xuống quan sát trực tiếp ở Sở giao dịch, một số chi nhánh để thu thập thông tin và số liệu phục vụ cho nghiên cứu của luận án.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 265 trang tài liệu này.

- Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn, xin ý kiến các chuyên gia, các cán bộ tín dụng và cán bộ quản lý tại một số chi nhánh của Techcombank (trực tiếp, qua thư điện tử) để có thêm các thông tin cần thiết, hữu ích phục vụ cho quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận án.

- Phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi: Phát phiếu khảo sát năng lực quản trị rủi ro tín dụng tại các chi nhánh: để có thêm thông tin cho việc đánh giá kiểm soát rủi ro tín dụng tại các chi nhánh Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam. Các chi nhánh được NCS chọn khảo sát đảm bảo tính đại diện: Có chi nhánh thành phố lớn, chi nhánh khu vực nông thôn, chi nhánh có tỷ lệ nợ xấu cao, chi nhánh có tỷ lệ nợ xấu thấp.

Nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam 1683910258 - 4

- Phương pháp thực nghiệm: Dựa trên kết quả khảo sát bảng hỏi và

phỏng vấn chuyên gia, tác giả xử lý dữ liệu trên excel và phần mềm SPSS, phân tích độ tin cậy của từng yếu tố cấu thành cũng như các tiêu chí đo lường, kiểm định kết quả nghiên cứu. Tác giả cũng đồng thời áp dụng phương pháp thống kê mô tả để tổng hợp,


so sánh nhằm lượng hóa mức độ ảnh hưởng của các yếu tố năng lực QTRRTD của Techcombank

- Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp: Thông qua việc thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp số liệu các báo cáo thống kê của Techcombank NCS đánh giá phân tích thực trạng rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng tại Techcombank giai đoạn 2014 - 2019.

- Phương pháp suy luận logic: Từ những vấn đề cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn đặc biệt những tồn tại, yếu kém và nguyên nhân tại Techcombank về quản trị rủi ro tín dụng, NCS suy luận logic để đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường quản trị rủi ro tín dụng tại Techcombank.

7. Đóng góp mới của luận án

Việc hoàn thành luận án trên có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sau:

- Đóng góp mới về lý luận cơ bản:

Hệ thống hóa những lý luận cơ bản về quản trị rủi ro tín dụng, năng lực quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại có bổ sung những thay đổi mới khi các ngân hàng đang triển khai thực hiện các quy định trong Hiệp ước Basel 2. Đậc biệt là vấn đề năng lực QTRRTD, với việc thiết lập để nghiên cứu và trình bày về khái niệm, ý nghĩa, nội dung và tiêu chí phản ánh được coi là lý luận cốt lõi và mới của đề tài. Hệ thống hóa các bài học kinh nghiệm nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng của một số Ngân hàng thương mại trên thế giới và Việt Nam từ đó đúc rút một số bài học kinh nghiệm có giá trị tham khảo để nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng đối với Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam.

- Đóng góp mới về thực tiễn:

+ Nghiên cứu sinh đã sử dụng những kiến thức lý luận cơ bản về quản trị rủi ro tín dụng và năng lực QTRRTD tiệm cận với thông lệ quốc tế và quy định hiện hành ở Việt Nam để phân tích, đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống thực trạng năng lực quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam giai đoạn 2014 - 2019. Với phương pháp sử dụng mô hình kinh tế lượng, NCS đã phân tích được mức độ ảnh hưởng của các yếu tố cấu thành năng lực QTRRTD tại ngân hàng. Với nguồn số liệu phong phú, cập nhật, có nguồn gốc rõ ràng, luận án đã chỉ ra mức độ thành công, những hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế một cách sát thực. Từ những nghiên cứu đó, luận án đưa ra những kết quả nghiên cứu thực tiễn đáng tin cậy, đây là phương pháp đánh giá thực trạng có nhiều ưu điểm hơn so với các đề tài tương tự đã công bố.


+ Đề xuất các giải pháp mới, nội dung tiên tiến, hiện đại nhằm nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam đến năm 2030 như: Nâng cao năng lực quản trị điều hành phù hợp với thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel; Nâng cao năng lực xây dựng và vận hành công cụ đo lường rủi ro tín dụng; Hoàn thiện tuyến phòng thủ cuối cùng trong mô hình ba tuyến phòng thủ nhằm nâng cao năng lực kiểm soát rủi ro tín dụng; Nâng cao năng lực xử lý rủi ro tín dụng, áp dụng các công cụ phân tán rủi ro như các công cụ phái sinh, bảo hiểm tín dụng… đề xuất các kiến nghị đối với các cơ quan, ban ngành nhằm nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam đến năm 2030.

8. Kết cấu luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận án cơ bản được chia thành ba chương:

Chương 1: Lý luận cơ bản về năng lực quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại;

Chương 2: Thực trạng năng lực quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam

Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI


1.1. Tổng quan về quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại

1.1.1. Rủi ro tín dụng

1.1.1.1 Khái niệm về rủi ro tín dụng

Rủi ro là những biến cố không mong đợi khi xảy ra dẫn đến tổn thất về tài sản của ngân hàng, giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm một khoản chi phí để có thể hoàn thành được một nghiệp vụ tài chính nhất định.

Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, tín dụng là hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận chủ yếu của ngân hàng nhưng cũng là nghiệp vụ tiềm ẩn rủi ro rất lớn. Rủi ro tín dụng nói chung và rủi ro trong hoạt động cho vay nói riêng là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây tổn thất và ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng kinh doanh ngân hàng.

Có nhiều khái niệm khác nhau về RRTD:

Theo Timothy W.Koch (Bank Management, 8th edition 2014)[77] Một khi ngân hàng nắm giữ tài sản sinh lợi, rủi ro xảy ra khi KH sai hẹn - có nghĩa là KH không thanh toán vốn gốc và lãi theo thỏa thuận. RRTD là sự thay đổi tiềm ẩn của thu nhập thuần và thị giá của vốn xuất phát từ việc KH không thanh toán hay thanh toán trễ hạn.

Theo Thomas P.Fitch (Dictionary of Banking Terms, 2018)[67] RRTD là loại rủi ro xảy ra khi người vay không thanh toán được nợ theo thỏa thuận hợp đồng dẫn đến sai hẹn trong nghĩa vụ trả nợ. Cùng với rủi ro lãi suất, RRTD là một trong những rủi ro chủ yếu trong hoạt động cho vay của ngân hàng.

Theo Henie Van Greuning - Sonja B rajovic Bratanovic (Analyzing Banking Risk: A Framework for Assessing Corporate Governance and Risk Management - Third Edition, 2009 [69]: RRTD được định nghĩa là nguy cơ mà người đi vay không thể chi trả tiền lãi hoặc hoàn trả vốn gốc so với thời hạn đã ấn định trong hợp đồng tín dụng. đây là thuộc tính vốn có của hoạt động ngân hàng. RRTD tức là việc chi trả bị trì hoãn, hoặc tồi tệ hơn là không chi trả được toàn bộ. Điều này gây ra sự cố đối với dòng chu chuyển tiền tệ và ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của ngân hàng.

Theo cuốn Quản trị rủi ro ngân hàng (2001) của Joel Besis [53], RRTD được hiểu là những tổn thất do KH không trả được nợ hoặc đó là sự giảm sút chất lượng TD của những khoản vay.


Trong bộ “17 nguyên tắc QTRRTD” của Ủy ban Basel [50] có đề cập “RRTD là khả năng bên vay nợ ngân hàng hoặc bên đối tác không đáp ứng nghĩa vụ thanh toán theo các điều khoản đã thỏa thuận”. Như vậy RRTD phát sinh khi một hoặc các bên trong hợp đồng tín dụng không có khả năng thanh toán cho các bên còn lại. RRTD có thể xảy ra bất cứ lúc nào là điều không thể tránh khỏi trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

Ở Việt Nam, theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN do NHNN Việt Nam ban hành ngày 21/01/2013 [34] “RRTD trong hoạt động ngân hàng là tổn thất có khả năng xảy ra đối với nợ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài do KH không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình theo cam kết”.

Như vậy, từ các khái niệm tham khảo qua các nghiên cứu đi trước, cùng với quan điểm của bản thân, tác giả tóm lược lại khái niệm về RRTD như sau“RRTD của NHTM là loại rủi ro gây nên tổn thất cho ngân hàng thương mại khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ thanh toán nợ của mình theo cam kết đã thực hiện với ngân hàng”

1.1.1.2. Phân loại rủi ro tín dụng

Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro

- Rủi ro giao dịch:

Rủi ro giao dịch là một hình thức của RRTD mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá KH. Rủi ro giao dịch bao gồm rủi ro lựa chọn, rủi ro đảm bảo và rủi ro nghiệp vụ.

+ Rủi ro lựa chọn: là rủi ro có liên quan đến đánh giá và phân tích tín dụng khi NH lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định cho vay.

+ Rủi ro đảm bảo: phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều khoản trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo, hình thức đảm bảo và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo.

+ Rủi ro nghiệp vụ: là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản vay có vấn đề.

- Rủi ro danh mục:

Rủi ro danh mục là rủi ro mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của NH, được phân thành rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.

+ Rủi ro nội tại: xuất phát từ các yếu tố, đặc điểm riêng bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn vay của KH vay.


+ Rủi ro tập trung: là trường hợp NH tập trung cho vay quá nhiều đối với một số KH, cho vay quá nhiều KH hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định,...

Căn cứ vào chủ thể:

- Rủi ro khách quan:

Rủi ro khách quan là rủi ro do các nguyên nhân khách quan như thiên tai, địch họa, người vay bị chết, mất tích và các biến động ngoài dự kiến khác làm thất thoát vốn vay trong khi người vay đã thực hiện nghiêm túc chế độ chính sách.

- Rủi ro chủ quan:

Rủi ro chủ quan là rủi ro do nguyên nhân chủ quan của người vay và người cho vay vì vô tình hay cố ý làm thất thoát vốn vay hay vì những lý do chủ quan khác.

1.1.1.3. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng

Hoạt động tín dụng luôn đem lại thu nhập chủ yếu cho một ngân hàng, do vậy RRTD cũng có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng, cụ thể các ảnh hưởng của RRTD như sau:

Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đối với hoạt động của Ngân hàng:

Giảm lợi nhuận của ngân hàng

Khi RRTD xảy ra sẽ phát sinh các khoản nợ khó đòi, sự ứ đọng vốn dẫn đến giảm vòng quay vốn ngân hàng, phát sinh các khoản chi phí quản trị, giám sát thu nợ… các chi phí này cao hơn khoản thu nhập từ việc tăng lãi suất nợ quá hạn, vì đây chỉ là những khoản thu nhập ảo, một trong những biện pháp xử lý của ngân hàng, thực tế ngân hàng rất khó có thể thu hồi đầy đủ chúng. Bên cạnh đó, ngân hàng vẫn phải trả lãi cho các khoản tiền huy động trong khi một bộ phận tài sản của ngân hàng không thu được lãi cũng như không chuyển được thành tiền cho người khác vay và thu lãi. Kết quả là giảm lợi nhuận của ngân hàng.

Giảm khả năng thanh toán của ngân hàng

Ngân hàng thường lập kế hoạch cân đối dòng tiền ra (trả lãi và gốc tiền gửi, cho vay, đầu tư mới…) và dòng tiền vào (tiền nhận gửi, tiền thu nợ gốc và lãi cho vay…) tại các thời điểm trong tương lai. Khi các hợp đồng vay không được thanh toán đầy đủ và đúng hạn sẽ dẫn đến sự không cân đối giữa hai dòng tiền. Một thực tế diễn ra, các khoản tiền gửi tiết kiệm của khách hàng vẫn phải thanh toán đúng kỳ hạn trong khi các khoản tiền vay của khách hàng lại không được hoàn trả đúng hạn. Nếu ngân hàng không đi vay hoặc bán các tài sản của mình thì khả năng chi trả của ngân hàng sẽ bị suy yếu, dẫn đến rủi ro thanh toán.


Giảm uy tín của ngân hàng

Tình trạng mất khả năng chi trả tái diễn nhiều lần, hay những thông tin về RRTD của ngân hàng bị tiết lộ ra công chúng, uy tín của ngân hàng trên thị trường tài chính sẽ bị giảm sút, đây là cơ hội tốt cho các đối thủ cạnh tranh giành giật lấy thị trường và khách hàng.

Phá sản ngân hàng

Nếu nhiều khách hàng vay vốn ngân hàng gặp khó khăn trong việc hoàn trả, nhất là những khoản vay lớn thì có thể dẫn đến khủng hoảng trong hoạt động của chính ngân hàng. Khi ngân hàng không chuẩn bị trước các phương án dự phòng, không đủ khả năng đáp ứng được nhu cầu rút vốn quá lớn, sẽ nhanh chóng mất khả năng thanh toán, dẫn đến sự sụp đổ của ngân hàng.

Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đối với nền kinh tế:

Hoạt động của ngân hàng có liên quan đến hoạt động của toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, khi RRTD xảy ra có thể làm phá sản một vài ngân hàng, có khả năng lây lan các ngân hàng khác tạo ra sự phá sản của Ngân hàng mà đua nhau rút tiền ào ạt, tạo cho dân chúng một tâm lý sợ hãi nên đưa nhau đến ngân hàng rút tiền trước thời hạn. Điều đó có thể đưa đến phá sản hàng loạt các ngân hàng và sẽ tác động xấu đến nền kinh tế. Khi các Ngân hàng phá sản sẽ kéo theo một bộ phận, các xí nghiệp, doanh nghiệp, dân cư mất vốn làm ảnh hưởng xấu đến sản xuất và đời sống.

Ngoài ra việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bị gián đoạn do thiếu vốn, người gửi tiền không lấy lại tiền được. Những hậu quả này còn giảm lòng tin của công chúng vào sự vững chắc và lành mạnh của hệ thống tài chính, những như hiệu lực của các chính sách tiền tệ của Chính phủ.

1.1.2. Quản trị rủi ro tín dụng

1.1.2.1. Khái niệm về quản trị rủi ro tín dụng

Quản trị là một khái niệm bao trùm nhiều lĩnh vực: quản trị hành chính (trong các tổ chức xã hội), quản trị kinh doanh (trong các tổ chức kinh tế). Trong lĩnh vực quản trị kinh doanh lại chia ra nhiều lĩnh vực: Quản trị tài chính, quản trị nhân sự, quản trị Marketing, quản trị sản xuất.

Thuật ngữ quản trị trong Tiếng Anh: “Management” vừa có nghĩa là quản lý, vừa có nghĩa là quản trị, nhưng hiện nay được dùng chủ yếu với nghĩa là quản trị. Tuy nhiên, khi dùng từ, chúng ta coi thuật ngữ quản lý gắn liền với với quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tức là quản lý ở tầm vĩ mô. Còn thuật ngữ quản trị thường dùng ở phạm vi nhỏ hơn đối với một tổ chức, một doanh nghiệp, ngân hàng.


Có rất nhiều quan niệm về quản trị: Koontz và O' Donnel [78] đưa ra khái niệm về quản trị thông qua nhiệm vụ của nó, cho rằng nhiệm vụ cơ bản của quản trị là "thiết kế và duy trì một môi trường mà trong đó các cá nhân làm việc với nhau trong các nhóm có thể hoàn thành các nhiệm vụ và các mục tiêu đã định". Theo James Stoner và Stephen Robbins, [94] “Quản trị là tiến trình hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát những hoạt động của các thành viên trong tổ chức và sử dụng tất cả các nguồn lực khác của tổ chức nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra”.

Trong lĩnh vực kinh doanh của NHTM, hiện nay, với nhiều cách tiếp cận khác nhau, các nhà khoa học, các tổ chức tài chính, ngân hàng đã đưa ra nhiều khái niệm quản trị RRTD của NHTM. Có thể kể đến một số khái niệm điểm hình:

Theo Tổ chức Moody’s Analytics [81] QTRRTD là một quá trình thực hiện các biện pháp giảm tổn thất bằng cách hiểu một cách đầy đủ về vốn và dự phòng RRTD trong một khoảng thời gian nhất định. Với quan điểm này thì QTRRTD thực chất là việc nhà quản trị có những biện pháp để quản lý vốn và dự phòng cho RRTD.

Theo ủy ban Basel [50] cho rằng, QTRRTD là việc thực hiện các biện pháp tối đa hóa tỷ suất sinh lời điều chỉnh theo RRTD bằng cách duy trì số dư tín dụng trong phạm vi các tham số cho phép. Khái niệm về QTRRTD của Ủy ban Basel đã làm rõ được vấn đề đó là mục đích của QTRRTD là tối đa hóa lợi nhuận dựa trên cơ sở đảm bảo tổn thất do RRTD gây ra nằm trong giới hạn mà NH có thể chấp nhận được.

Theo khung QTRRTD của ngân hàng Standard Charter (2012)[93] QTRRTD là quá trình QLRRTD thông qua thiết lập khung các chính sách và thủ tục, nhằm kiểm soát việc đo lường và QLRRTD. Trong khi đó, tài liệu hướng dẫn QTRRTD của MAS (Singapore) cho biết, QTRRTD là quá trình nhận diện, đo lường, đánh giá, giám sát, kiểm soát và báo cáo RRTD thông qua thiết lập khung các chính sách và thủ tục, nhằm kiểm soát việc đo lường và QLRRTD.

Theo giáo trình “Quản trị tín dụng Ngân hàng thương mại” (2012)[12] của Đinh Xuân Hạng và Nguyễn Văn Lộc:

QTRRTD trong ngân hàng là tổng hòa các biện pháp, các chính sách để nắm bắt được sự phát sinh và lượng hóa được những tổn thất tiềm ẩn từ đó tìm cách giảm thiểu hoặc loại bỏ những tổn thất ấy.

Như vậy, mặc dù các quan điểm đưa ra về quản trị RRTD có những cách tiếp cận khác nhau, song đều có điểm chung cho rằng quản trị RRTD tập trung vào quá trình thực hiện các chiến lược và chính sách, các biện pháp nhằm hạn chế RRTD, từ đó hướng tới mục tiêu kinh doanh của NHTM. "Hiệu quả QTRRTD là một bộ phận quan

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 12/05/2023