theo loại tín dụng; qui định biện pháp thu hồi nợ đối các loại khoản vay khác nhau, đối tượng khác nhau.
+ Qui định các sản phẩm tín dụng
Các sản phẩm tín dụng và những qui định cấp tín dụng như: Mục đích vay vốn, đối tượng vay vốn, tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ.
Xây dựng quy trình QTRR: Quy trình QTRRTD là trình tự và nội dung cụ thể các bước phải trải qua khi thực hiện các hoạt động QTRRTD.
Quy trình QTRRTD bao gồm:
Thứ nhất, qui trình, thủ tục cấp và quản lý tín dụng;
Thứ hai, qui trình, thủ tục áp dụng các biện pháp nhằm giảm thiểu RRTD
Thứ ba, qui trình, thủ tục sử dụng các công cụ, các biện pháp để nhận diện, đo lường, đánh giá, giám sát và KSRRTD.
Việc ban hành các hướng dẫn về qui trình QTRRTD là điều kiện cần để đảm bảo hiệu quả hoạt động QTRRTD bởi trong tiến trình QTRRTD, mỗi bước, mỗi giai đoạn của các hoạt động QTRRTD đều có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của quá trình QTRRTD. Các chiến lược QTRRTD, chính sách QTRRTD cũng như các qui trình QTRRTD đối với từng KH, từng nhóm KH liên quan, từng loại hình TD. bao gồm các khoản TD mới và TD tái cơ cấu, tái tài trợ cần được NHTM xây dựng một cách đầy đủ, cụ thể, chi tiết căn cứ vào đặc điểm, mục tiêu từng hoạt động quản trị.
Nhận diện rủi ro tín dụng:
Nhận diện RRTD là quá trình xác định liên tục và có hệ thống các hoạt động kinh doanh của NH có thể gây ra RRTD. Nhận diện RRTD bao gồm các công việc theo dõi, xem xét, nghiên cứu môi trường hoạt động và toàn bộ mọi hoạt động nội bộ của NHTM nhằm thống kê được tất cả các nguyên nhân gây ra RRTD, để từ đó có các biện pháp phù hợp giảm thiểu RRTD.
Nhận diện RRTD có ảnh hưởng đến tất cả quá trình QTRRTD. Nhận diện đúng, đầy đủ các RRTD là bước đệm để NHTM tiến hành đo lường, đánh giá chính xác mức độ rủi ro cũng như tác động của rủi ro đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM. Từ đó, NH có các giải pháp ứng phó hợp lý nhằm quản lý, kiểm soát và tài trợ rủi ro, đảm bảo RRTD luôn nằm trong khả năng chấp nhận của NHTM và phù hợp với khẩu vị RR cũng như văn hóa QTRRTD của NHTM
Nhận diện RRTD phải được thực hiện tuân thủ 4 nguyên tắc: (i) RRTD phải được nhận diện một cách đầy đủ, toàn diện và thường xuyên đánh giá lại; (ii) RRTD phải được nhận diện trên tất cả các sản phẩm và tất cả các hoạt động tín dụng của
NHTM; (iii) Nhận diện RRTD đã xảy ra, đang xảy ra và dự báo những rủi ro mới có khả năng phát sinh trong tương lai; (iiii) Nhận diện RRTD phải thực hiện một cách liên tục cả ở cấp độ các khoản tín dụng riêng lẻ và cấp độ danh mục tín dụng thông qua hệ thống các công cụ, phương tiện và kỹ thuật tại mỗi NHTM.
Để thực hiện nguyên tắc trên, việc nhận diện RRTD phải được thực hiện thường xuyên thông qua thị trường mục tiêu, điều kiện cấp TD và đánh giá lại TD.
Nhận diện RRTD thông qua thị trường mục tiêu: Ở mỗi giai đoạn khác nhau, tuy theo định hướng và mục tiêu kinh doanh mà mỗi NHTM sẽ có các thị trường mục tiêu khác nhau dựa trên các thế mạnh và đặc tính của các sản phẩm tài chính mà NHTM cung ứng trên thị trường. Các khoản tín dụng sẽ được cấp cho các KH thuộc thị trường mục tiêu đã được xác định và phê duyệt. Bởi vậy thị trường mục tiêu chính là cơ sở giúp cho NHTM nhận diện RRTD hiện hữu cũng như RRTD tiềm tàng cho từng phân khúc thị trường cụ thể.
Nhận diện RRTD thông qua tiêu điều kiện cấp tín dụng: Điều kiện cấp tín dụng sẽ hình thành nên đặc điểm RRTD đối với từng khoản tín dụng và đối với danh mục tín dụng của mỗi NHTM. Vì vậy, điều kiện cấp tín dụng là cơ sở để nhận diện RRTD hiện hữu và tiềm tàng đối với các khoản tín dụng được phê duyệt.
Nhận diện RRTD thông qua đánh giá lại tín dụng: Đối với các khoản tín dụng KH chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo cam kết trong hợp đồng TD, NHTM phải tổ chức định kỳ đánh giá lại. Việc đánh giá lại dựa trên hệ thống các tiêu chí do NHTM qui định với mục đích đánh giá lại RRTD các khoản nợ. Vì vậy, đánh giá lại tín dụng là cơ sở nhận diện sớm các RRTD có thể phát sinh trong quá trình KH sử dụng vốn.
Đo lường rủi ro tín dụng:
Đo lường RRTD thực chất là quá trình sử dụng các công cụ, các kỹ thuật và phương pháp để xác định mức độ xảy ra RRTD
Mục tiêu của việc đo lường RRTD là xác định được mức độ RRTD, qua đó ước lượng mức độ tổn thất do RRTD gây ra và có kế hoạch ứng phó kịp thời để hạn chế tổn thất cho NHTM. Kết quả đo lường, đánh giá RRTD tác động trực tiếp đến khả năng KSRRTD của NHTM. Vì vậy, việc đo lường, đánh giá RRTD phải được thực hiện một cách chính xác và kịp thời ở cấp độ từng khoản tín dụng riêng lẻ và danh mục tín dụng.
Định tính:
Để thực hiện việc nhận biết, phân tích và đo lường RRTD về mặt định tính, các NHTM thường sử dụng Mô hình 6C, với các nội dung cụ thể sau đây:
- Tư cách người vay (Character): Cán bộ tín dụng phải làm rõ mục đích xin vay của KH, mục đích vay của KH có phù hợp với chính sách tín dụng hiện hành của NHTM hay không? đồng thời xem xét về lịch sử đi vay và trả nợ đối với KH cũ; đối với KH mới thì cần thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác như: Trung tâm phòng ngừa rủi ro, từ KH khác, hoặc các cơ quan thông tin đại chúng,…
- Năng lực của người vay (Capacity): Tùy thuộc vào qui định luật pháp của mỗi quốc gia. Người vay phải có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự.
- Thu nhập của người vay (Cash): Trước hết phải xác định được nguồn trả nợ của người vay như luồng tiền từ doanh thu bán hàng hay từ thu nhập; tiền từ bán thanh lý tài sản, hoặc tiền từ phát hành chứng khoán,… Sau đó cần phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp vay vốn thông qua các tỷ số tài chính.
- Bảo đảm tiền vay (Collateral): Đây là điều kiện để NHTM cấp tín dụng và là nguồn tài sản thứ hai có thể dùng để trả nợ vay cho NHTM.
- Các điều kiện (Conditions): NHTM quy định các điều kiện tùy theo chính sách tín dụng theo từng thời kỳ.
- Kiểm soát (Control): Đánh giá những ảnh hưởng do sự thay đổi của luật pháp, quy chế hoạt động đến khả năng KH đáp ứng các tiêu chuẩn của NHTM.
Mô hình 6C tương đối đơn giản, tuy nhiên lại phụ thuộc quá nhiều vào mức độ chính xác của nguồn thông tin thu thập được, khả năng dự báo cũng như trình độ phân tích, đánh giá chủ quan của cán bộ tín dụng.
Định lượng: Mô hình xếp hạng tín dụng
Để nhận biết, phân tích và đo lường RRTD về mặt định lượng, thường được sử dụng một số phương pháp sau:
Mô hình điểm số Z [46]
- Đây là mô hình do E.I.Altman xây dựng dùng để cho điểm tín dụng đối với các doanh nghiệp vay vốn. Đại lượng Z dùng làm thước đo tổng hợp để phân loại RRTD đối với người vay và phụ thuộc vào trị số của các chỉ số tài chính của người vay. Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người vay trong quá khứ, Từ đó Altman đã xây dựng mô hình tính điểm như sau:
Z = 1,2 X1 + 1,4 X2 + 3,3 X3 + 0,6 X4 + 1,0 X5
Trong đó: X1 = Hệ số vốn lưu động/tổng tài sản X2 = Hệ số lợi nhuận chưa phân phối/tổng tài sản X3 = Hệ số lợi nhuận trước thuế và lãi/tổng tài sản
X4 = Hệ số giá trị thị trường của tổng vốn sở hữu/giá trị hạch toán của tổng nợ X5 = Hệ số doanh thu/tổng tài sản
Trị số Z càng cao, người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Vậy khi, trị số Z thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ xếp KH vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao.
Z < 1,81: KH có khả năng rủi ro cao 1,81 < Z < 3: Không xác định được Z > 3: KH không có khả năng vỡ nợ
Theo mô hình cho điểm Z của Altman, bất cứ công ty nào có điểm số thấp hơn 1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ RRTD cao.
Ưu điểm: Kỹ thuật đo lường RRTD tương đối đơn giản.
Nhược điểm:
- Mô hình này chỉ cho phép phân loại nhóm KH vay có rủi ro và không có rủi ro. Tuy nhiên trên thực tế, mức độ RRTD tiềm năng của mỗi KH khác nhau từ mức thấp như chậm trả lãi, không được trả lãi cho đến mức mất hoàn toàn vốn và lãi khoản vay
- Không có lý do thuyết phục để chứng minh rằng các thông số phản ánh tầm quan trọng của các chỉ số trong công thức là bất biến. Tương tự như vậy, bản thân các chỉ số được chọn cũng không phải là bất biến, đặc biệt khi các điều kiện kinh doanh cũng như điều kiện thị trường tài chính đang thay đổi liên tục.
- Mô hình không tính đến một số nhân tố khó định lượng nhưng có thể đóng một vai trò quan trọng ảnh hưởng đến mức độ của các khoản vay (danh tiếng của KH, mối quan hệ lâu dài giữa NHTM và KH hay các yếu tố vĩ mô như sự biến động của chu kỳ kinh tế).
Ngoài mô hình điểm số Z, hiệp ước Basel 2 đề xuất 2 cách tiếp cận để đo lường, đánh giá RRTD: phương pháp chuẩn hóa và phương pháp tiếp cận xếp hạng nội bộ.
Mô hình xếp hạng của Moody và Standard & Poor [81]
Phương pháp xếp hạng tín nhiệm của Moody tập trung vào bốn lĩnh vực chính là đánh giá môi trường ngành, đánh giá tình hình tài chính, đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh và đánh già khả năng quản trị doanh nghiệp chú trọng vào quản trị rủi ro và kiểm soát nội bộ. Quy trình đánh giá của Moody‟s bao gồm các bước: (i) Thu thập thông tin cho đến khi đầy đủ để đánh giá rủi ro của bên nắm giữ nợ hay mua chứng khoán, bao gồm cả việc thảo luận với bên đi vay; (ii) Đưa ra kết luận trước hội đồng xếp hạng; (iii) Theo dõi liên tục để quyết định xem có cần thay đổi mức xếp hạng không; (iv) Thông báo quan điểm xếp hạng ra thị trường.
Bảng xếp hạng tín nhiệm của Moody‟s đối với công cụ nợ dài hạn của doanh nghiệp cao nhất từ AAA và thấp dần tới D ứng với mức chất lượng cao nhất và mức chất lượng kém nhất tương ứng với việc phá sản hoàn toàn.
Phương pháp chuẩn hóa (The Standardized Approach- SA) [51]: là phương pháp sử dụng kết quả xếp hạng tín dụng của các tổ chức xếp hạng tín dụng độc lập. Theo Basel 2, NHTM chỉ được phép sử dụng kết quả xếp hạng bên ngoài của các tổ chức độc lập được cơ quan giám sát NHTM thừa nhận và NHTM phải công khai thông tin về tổ chức xếp hạng mà họ sử dụng cũng như trọng số rủi ro gắn với từng hạng đánh giá của tổ chức xếp hạng đó.
Theo phương pháp này, các tài sản “có” được phân loại theo 2 chiều. Chiều dọc- theo loại KH bao gồm: Chính phủ, Cơ quan nhà nước, NHTM phát triển đa quốc gia, NHTM, công ty chứng khoán, Doanh nghiệp, danh mục bán lẻ (cá nhân, doanh nghiệp nhỏ…) và các đối tượng khác. Chiều ngang- theo hạng tín nhiệm được cung cấp bởi tổ chức xếp hạng bên ngoài. Tính mức vốn cho rủi ro: Hệ số rủi ro mỗi khoản tín dụng được xác định cụ thể căn cứ vào nhóm KH và hạng của KH. Giá trị ròng các khoản tín dụng được điều chỉnh theo giá trị TSBĐ.
Phương pháp đo lường RRTD dựa trên xếp hạng nội bộ IRB (Internal Ratings Based) [51] Theo phương pháp này, NHTM sử dụng hệ thống xếp hạng nội bộ để đo lường, đánh giá RRTD. Nói cách khác, phương pháp này cho phép các NHTM có thể tự quyết định và ước tính những thành tố trong công thức tính toán nhu cầu vốn của họ. Từ đó, hệ số rủi ro hay tỷ lệ vốn sẽ quyết định thông qua sự kết hợp của các yếu tố đầu vào định lượng do cả NHTM và cơ quan giám sát đưa ra cũng như hàm số rủi ro được chỉ định bởi cơ quan giám sát. Phương pháp này phù hợp cho NHTM với quy mô khác nhau, nhiều cấu trúc doanh nghiệp khác nhau và các danh mục đầu tư khác nhau.
Cơ sở lý thuyết của phương pháp xếp hạng nội bộ cơ bản là dựa trên mô hình giả định một nhân tố rủi ro (mô hình AFRS) đối với RRTD. Trong đó, khả năng không trả được nợ vay của KH được đánh giá dựa vào sự chênh lệch giữa giá trị tài sản thế chấp và giá trị danh nghĩa của các khoản vay. Giá trị tài sản của các doanh nghiệp sẽ là một biến thay đổi theo thời gian, chịu một phần tác động của các biến cố ngẫu nhiên như sự thay đổi theo thị trường hay chính sách. Khả năng vỡ nợ sẽ xuất hiện khi giá trị tài sản của người đi vay quá thấp so với giá trị tài sản danh nghĩa.
Basel II cung cấp 2 phương pháp IRB để NHTM lựa chọn phù hợp với qui mô, đặc điểm và nguồn lực của từng NHTM là IRB cơ bản (Foundation - F-IRB) và IRB nâng cao (Advanced - A-IRB). Sự khác biệt chính của 2 phương pháp này là mức độ sử dụng các ước lượng nội bộ để đo lường RR. Theo phương pháp tiếp cận xếp hạng nội bộ cơ bản F - IRB (Founded - Internal Ratings Based), như một thông lệ chung, NHTM sẽ chủ yếu dùng các ước lượng của mình để xác định PD (xác suất KH không
trả được nợ) và sau đó dựa thêm vào các ước lượng của các cơ quan chủ quản để xác định các thành tố RR khác. Theo phương pháp A - IRB (Advanced Internal Ratings Based), NHTM sẽ thực hiện thêm các ước lượng PD, LGD (tỷ lệ mất vốn dự kiến), EAD (dư nợ của KH tại thời điểm KH không trả được nợ), và M (kỳ đáo hạn hiệu dụng) theo các chuẩn mực tối thiểu được quy định. Trong cả hai phương pháp tiếp cận, NHTM đều phải sử dụng các hàm số RR nhằm xác định yêu cầu về vốn.
Công thức đo lường RRTD theo phương pháp IRB: Phương pháp IRB đưa ra khái niệm tổn thất mất vốn dự tính được do KH không trả được nợ EL. Theo quy định của Basel II tổn thất tín dụng của một danh mục tín dụng có thể chia thành 2 loại là (i) khoản tổn thất dự tính được EL (Expected Losses) và (ii) khoản tổn thất không dự tính được UL (Unexpected Losses). Đối với mỗi khoản vay hay mỗi KH, EL được xác định theo công thức:
EL = PD x LGD x EAD
Đối với cách tiếp cận này, để xác định được mức độ rủi ro của tài sản sẽ dựa vào việc ước lượng được các tham số: PD (Probability of Default - xác suất KH không trả được nợ); LGD (Losses Given Default - Tỷ lệ mất vốn dự kiến); EAD (Exposure of Default - dư nợ của KH tại thời điểm không trả được nợ)
Các NHTM dựa vào IRB có thể sử dụng, hoặc được cơ quan chủ quản yêu cầu sử dụng, mô hình đo lường rủi ro nội bộ để tính yêu cầu về vốn trên cơ sở rủi ro. Theo lựa chọn này, các NHTM phải nắm giữ số vốn tương đương tổn thất tiềm tàng vốn cổ phần nắm giữ của định chế được xác định nhờ việc sử dụng mô hình giá trị rủi ro nội bộ (Mô hình VaR nội bộ) với độ tin cậy là 99% của chênh lệch giữa lợi nhuận hàng quý và hệ số rủi ro thích đáng được tính trong suốt một giai đoạn thí điểm dài hạn.
Hình 1. 3: Đồ thị minh họa tổn thất tín dụng theo Basel II
(Nguồn:[51])
Trên cơ sở đó, các NHTM sẽ xây dựng chính sách định giá và trích lập dự phòng khắc phục tổn thất cho từng khoản vay, từng KH.
Như vậy để có thể đưa ra một chính sách vốn như thế nào là cần thiết để đối mặt với rủi ro thì các NHTM sẽ phải ước lượng mức độ tổn thất không dự tính trong một khoảng thời nhất định, từ đó NHTM sẽ ước lượng được mức vốn kinh tế đủ đề bù đắp được mức độ tổn thất không dự tính được.
PD (Probability of Default - xác suất KH không trả được nợ)
PD là tham số đo lường khả năng xảy ra RRTD tương ứng trong một khoảng thời gian, thường là một năm. Cơ sở của xác suất này là các số liệu về các khoản nợ trong quá khứ của KH, gồm các khoản nợ đã trả, khoản nợ trong hạn và khoản nợ không thu hồi được. Theo yêu cầu của Basel II, để tính toán được nợ trong vòng một năm của KH, NHTM phải căn cứ vào số liệu dư nợ của KH trong vòng ít nhất là 5 năm trước đó. Những dữ liệu được phân theo 3 nhóm sau: (i) nhóm dữ liệu tài chính liên quan đến các hệ số tài chính của KH cũng như các đánh giá của các tổ chức xếp hạng;
(ii) nhóm dữ liệu định tính phi tài chính liên quan đến trình độ quản lý, khả năng nghiên cứu, phát triển sản phẩm mới, các dữ liệu về khả năng tăng trưởng của ngành…; (iii) Nhóm dữ liệu mang tính cảnh báo liên quan đến các hiện tượng báo hiệu khả năng không trả được nợ cho NHTM như số dư tiền gửi, hạn mức thấu chi…
Từ những dữ liệu trên, NHTM nhập vào một mô hình định sẵn, từ đó tính được xác xuất không trả được nợ của KH. Đó có thể là mô hình tuyến tính, mô hình probit… và thường được xây dựng bởi các tổ chức tư vấn chuyên nghiệp.
LGD (Losses Given Default - Tỷ lệ mất vốn dự kiến)
LGD là những tốn thất phát sinh trên cơ sở vỡ nợ của KH, được mô tả bằng tỷ lệ phần trăm phần vốn bị tổn thất trên tổng dư nợ tại thời điểm KH không trả được nợ (giá trị danh nghĩa của khoản cho vay). LGD không chỉ bao gồm tổn thất về khoản vay mà còn bao gồm các tổn thất khác phát sinh khi KH không trả được nợ, đó là lãi đến hạn nhưng không được thanh toán và các chi phí khác có thể phát sinh như: chi phí xử lý tài sản thế chấp, các chi phí cho dịch vụ pháp lý và các chi phí liên quan.
Theo Basel II, trong phương pháp F-IRB, các khoản phải đòi chính đối với các doanh nghiệp, cơ quan chính phủ và các NHTM (không có tài sản đảm bảo) sẽ được chỉ định giá trị LGD là 45%; nếu là các khoản phải đòi phụ đối với các tổ chức trên thì sẽ được chỉ định là 75%. Đối với các khoản phải đòi (có TSBĐ) là khoản phái thu, các khoản cầm cố, bất động sản thương mại (CRE) và bất động sản cư trú (RRE) và các TSBĐ khác sẽ được áp dụng các giá trị LGD tối thiểu được mô tả trong bảng sau:
Bảng 1.2 Tỷ trọng LGD đối với các khoản phải đòi có TSBĐ theo Basel II (F-IRB)
LGD tối thiểu | |
Tài sản tài chính đủ tiêu chuẩn | 0% |
Khoản phải thu | 35% |
CRE/RRE | 35% |
Khoản cầm cố khác | 40% |
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Việt Nam 1683910258 - 3
- Lý Luận Cơ Bản Về Năng Lực Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại;
- Kim Tự Tháp Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng (Nguồn: [87])
- Năng Lực Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại
- Năng Lực Xây Dựng Và Vận Hành Các Công Cụ Đo Lường Rủi Ro Tín Dụng
- Năng Lực Xây Dựng Và Ứng Dụng Hệ Thống Thông Tin Quản Lý, Cơ Sở Hạ Tầng Tin Học
Xem toàn bộ 265 trang tài liệu này.
(Nguồn: HSBC 2005)
EAD (Exposure of Default - dư nợ của KH tại thời điểm không trả được nợ)
Đối với các khoản vay có kỳ hạn, EAD được xác định không quá khó khăn, song đối với các khoản vay theo hạn mức tín dụng, tín dụng tuần hoàn thì vấn đề này lại khá phức tạp. Theo thống kê của Ủy ban Basel, tại thời điểm không trả được nợ, KH thường có xu hướng rút vốn vay tới mức gần xấp xỉ hạn mức được cấp. Do đó Ủy ban Basel II yêu cầu tính EAD như sau:
EAD = Dư nợ bình quân + LEQ x Hạn mức tín dụng chưa sử dụng bình quân Trong đó, LEQ - Loan Equivalent Exposure là tỷ trọng phần vốn chưa sử dụng
có nhiều khả năng sẽ được KH rút thêm tại thời điểm không trả được nợ. LEQ x Hạn mức tín dụng chưa sử dụng bình quân chính là phần dư nợ KH rút thêm tại thời điểm không trả được nợ ngoài mức dư nợ bình quân.
Ngoài 3 cấu thành trong công thức tính xác suất rủi ro thu hồi được (EL) đã trình bày ở trên, khi đưa vào sử dụng công thức tính EL, các NHTM cần phải tính toán kỳ đáo hạn hiệu dụng của các khoản tiền trả theo các hợp đồng tín dụng. Kỳ đáo hạn hiệu dụng M được xác định là giá trị lớn hơn giữa một năm và kỳ hạn có hiệu lực còn lại tính bằng năm. Trong tất cả các trường hợp, M sẽ không lớn hơn 5 năm, kỳ đáo hạn hiệu dụng M được xác định như sau:
Kỳ đáo hạn hiệu dụng M =∑ ( )/∑ ( )
Trong đó CFt chỉ dòng tiền (gốc, lãi và phí) mà bên vay theo hợp đồng sẽ phải trả vào kỳ thứ t.
Basel 2 đề xuất các điều kiện tối thiểu để NHTM tiếp cận phương pháp IRB
- Hệ thống phải đảm bảo hai chiều xếp hạng độc lập: rủi ro vỡ nợ của KH và các yếu tố liên quan đến giao dịch. Đối với rủi ro vỡ nợ của KH phải đảm bảo: (1) Các khoản vay của cùng 1 KH phải xếp chung 1 hạng, không tính đến sự khác nhau về bản chất các giao dịch, (2) NHTM phải qui định cụ thể trong chính sách tín dụng mối quan hệ giữa hạng của KH và mức độ rủi ro cụ thể của mỗi hạng. Đối với các yếu tố liên quan đến rủi ro, Basel 2 yêu cầu hạng của KH phải phản ánh được các rủi ro liên quan trực tiếp đến giao dịch như: loại sản phẩm, ưu tiên nợ, TSBĐ, ngành, đặc điểm KH…NHTM có thể thay đổi các nhân tố ảnh hưởng đến xếp hạng với điều kiện họ