Chỉ Tiêu Đánh Giá Năng Lực Về Công Nghệ Thông Tin



giá này càng trở nên khó khăn, bởi môi trường vĩ mô luôn luôn thay đổi và cùng với môi trường vĩ mô, sự tiến bộ của khoa học công nghệ cũng cho ra đời nhiều sản phẩm thay thế, khiến cho người tiêu dùng có nhiều lựa chọn hơn cũng như làm cho vòng đời một sản phẩm dịch vụ trở nên khó dự đoán. Hoạt động quản trị của NHTM liên quan đến mọi lĩnh vực của ngân hàng, từ xây dựng chiến lược, marketing, quản trị nhân lực…xét cho cùng, kết quả tài chính hàng năm của ngân hàng chính là kết quả của hoạt động quản trị các lĩnh vực của đội ngũ lãnh đạo ngân hàng.

Trên bình diện chung nhất, như nhiều nhà nghiên cứu đã thừa nhận, quản trị là những hành động được tiến hành bởi những nhà quản trị, những hành động này được xuất phát từ nhu cầu, mục tiêu chung và hướng vào việc điều hòa các nguồn lực con người và vật chất sao cho sự hao tổn để đạt mục đích, mục tiêu nhất định là thấp nhất có thể. Theo đó quản trị ngân hàng là việc thiết lập các chương trình hoạt động kinh doanh để đạt mục đích, mục tiêu kinh doanh dài hạn, ngắn hạn của ngân hàng, là việc xác định và điều hòa các nguồn tài nguyên để thực hiện chương trình, các mục tiêu kinh doanh, đó là việc tổ chức lãnh đạo, kiểm tra nhân viên của ngân hàng thực hiện chương trình, các mục tiêu đã đề ra.

Vì vậy, rất nhiều chỉ tiêu liên quan đến nguồn lực tài chính và nguồn lực con người của NHTM đã phản ánh năng lực quản trị điều hành của ngân hàng nhằm duy trì lợi thế cạnh tranh và tạo ra những lợi thế cạnh tranh mới. Đó là các chỉ tiêu về tăng trưởng tổng tài sản, các chỉ tiêu liên quan đến an toàn hoạt động của ngân hàng, các chỉ tiêu về thị phần hoạt động và tăng trưởng các mặt hoạt động kinh doanh của ngân hàng, tổng hợp nhất-chỉ tiêu lợi nhuận- phản ánh tổng hợp kết quả hoạt động quản trị của ngân hàng.

Tuy nhiên, để đánh giá toàn diện hoạt động quản trị NHTM không thể chỉ dựa vào kết quả tài chính tức thời của một thời điểm, một vài năm, việc đánh giá này phải dựa trên chiến lược kinh doanh của ngân hàng là nhằm tối đa hóa lợi nhuận hay phát triển bền vững của ngân hàng, các kịch bản của ngân hàng nhằm đối phó với sự đe dọa của các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn, các sản phẩm thay thế, của các cú sốc kinh tế, hay dự báo phát triển các sản phẩm mới của ngân hàng. Tất cả những điều này đều khó có sự thống nhất về tính đúng/sai mà chỉ khi biến



cố thực sự xảy ra, nhìn vào ứng xử đối phó của ngân hàng thì những điều này mới được kiểm chứng.

1.2.3.3. Chỉ tiêu đánh giá năng lực về công nghệ thông tin

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 181 trang tài liệu này.

Trong lĩnh vực ngân hàng, công nghệ đang ngày càng đóng vai trò như là một trong các nguồn lực tạo ra lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất của mỗi ngân hàng. Năng lực công nghệ của NHTM thường được đánh giá thông qua các tiêu chí:

- Khả năng trang bị công nghệ mới bao gồm thiết bị và nhân lực;

Nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế - 6

- Mức độ đáp ứng của công nghệ ngân hàng đối với nhu cầu của thị trường để giữ được thị phần dịch vụ;

- Tính liên kết công nghệ giữa các ngân hàng và tính độc đáo về công nghệ của mỗi ngân hàng.

Ngoài ra, còn có thể đánh giá năng lực cạnh tranh của mỗi ngân hàng qua danh tiếng và uy tín của mỗi ngân hàng đó. Về hình thức, danh tiếng và uy tín biểu hiện qua thương hiệu. Về bản chất, danh tiếng và uy tín được tạo ra từ chất lượng, quy mô của sản phẩm dịch vụ.

1.2.3.4. Chỉ tiêu đánh giá năng lực cung cấp dịch vụ và hệ thống phân phối của hệ thống Ngân hàng Thương mại

Trong môi trường kinh doanh hiện đại như ngày nay, cơ cấu tổ chức của hệ thống NHTM là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá mức độ thành công và hợp lý về mặt tổ chức và phân bổ các nguồn lực trong kinh doanh của ngân hàng đó. Ngân hàng có phạm vi hoạt động kinh doanh sâu và rộng, bởi vậy đòi hỏi một hệ thống tổ chức nhiều cấp gồm nhiều phòng, ban chức năng, bộ phận chuyên môn đa dạng nhưng không quá cồng kềnh, rườm rà. Cơ cấu tổ chức hợp lý, khoa học và chặt chẽ sẽ giúp ngân hàng phối hợp và phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống mà không lãng phí các nguồn lực. Hiệu quả của cơ cấu tổ chức không chỉ thể hiện ở số lượng phòng ban chức năng, bộ phận chuyên môn, đơn vị trực thuộc có phù hợp với quy mô và phạm vi hoạt động kinh doanh hay không mà còn phụ thuộc vào sự phân công, phân cấp giữa các phòng ban bộ phận và mức độ phối hợp giữa chúng trong việc triển khai các chiến lược kinh doanh, các hoạt động nghiệp vụ hàng ngày để đạt được mục tiêu chung và khả



năng thích nghi, thay đổi của cơ cấu trước những biến động của ngành hay những biến động trong môi trường vĩ mô.

Bên cạnh đó, trình độ quản lý, điều hành của Hội đồng quản trị và Ban giám đốc của một ngân hàng cũng có ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của ngân hàng đó. Mỗi một chính sách, chiến lược của đội ngũ quản lý điều hành đều có thể quyết định sự thành công hay thất bại của cả một hệ thống. Ngành ngân hàng đòi hỏi đội ngũ quản lý có trình độ cao, phạm vi hiểu biết sâu rộng, phong cách điều hành phải mềm dẻo, linh hoạt nhưng không kém phần cứng rắn, quyết đoán.

Các NHTM có quy mô và phạm vi địa lý hoạt động rất rộng nên hệ thống mạng lưới phân phối sản phẩm dịch vụ có vai trò rất quan trọng. Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng như hiện nay, việc hình thành và phát triển mạng lưới phân phối sản phẩm dịch vụ rộng rãi và được phân bố hợp lý vừa góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh, vừa là một vũ khí giúp các NHTM trong nước chống lại sự xâm nhập và mở rộng thị trường của các NHTM nước ngoài vốn có các ưu thế vượt trội gần như toàn diện, khi mà lĩnh vực tài chính ngân hàng sẽ được mở cửa trong thời gian tới. Hiệu quả của mạng lưới phân phối sản phẩm dịch vụ của NHTM thể hiện cụ thể qua số lượng chi nhánh, sở giao dịch theo phạm vi địa lý cũng như tính hợp lý trong phân bố mạng lưới ở các vùng, miền và vấn đề quản lý, giám sát hoạt động của chúng.

Năng lực cung cấp dịch vụ và hệ thống phân phối của NHTM bao gồm:

- Khả năng huy động vốn.

- Khả năng cho vay và đầu tư.

- Khả năng phát triển sản phẩm và dịch vụ.

+ Các phương thức gửi tiền khác nhau về kỳ hạn, lãi suất

+ Các nhu cầu vay vốn khác nhau về kỳ hạn vay, trả, về loại tiền (nội tệ, ngoại tệ) về cách giải ngân, cách trả lãi, cách sử dụng vốn vay

+ Cách thanh toán chi phí tiêu dùng, thanh toán hàng hóa, dịch vụ trong nước, nước ngoài

+ Quản lý ngân quỹ, tài sản, tư vấn, môi giới, bảo hiểm, đầu tư chứng khoán, mua bán ngoại tệ.


1.2.3.5. Chỉ tiêu đánh giá thị phần của hệ thống Ngân hàng Thương mại

Thị phần trên các phân đoạn thị trường mà ngân hàng cung cấp sản phẩm dịch vụ là một chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh của các NHTM. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận án, việc nghiên cứu năng lực cạnh tranh trên toàn bộ các khía cạnh hoạt động của các NHTM Việt Nam là rất khó khăn và phức tạp, mặt khác, trong tình hình hoạt động kinh doanh của hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay, nhìn chung các sản phẩm, dịch vụ mà các ngân hàng cung cấp vẫn chưa thực sự đa dạng và phong phú, các hoạt động kinh doanh cơ bản, truyền thống như hoạt động tín dụng, huy động vốn, kinh doanh ngoại tệ, hoạt động thanh toán quốc tế và chi trả kiều hối, hoạt động thẻ… vẫn đóng vai trò chủ đạo và chiếm phần lớn trong tổng thu nhập. Do vậy, việc đánh giá thị phần chiếm lĩnh trong các hoạt động kinh doanh chủ yếu cũng phản ánh tương đối chính xác thực trạng năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam hiện nay.

1.2.4. Nhân tố tác động đến năng lực cạnh tranh của hệ thống Ngân hàng Thương mại trong môi trường hội nhập

Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các NHTM và có nhiều cách để phân chia chúng theo từng nhóm khác nhau. Tuy nhiên, để có thể đánh giá một cách cụ thể, có thể chia thành 2 nhóm nhân tố như sau:

1.2.4.1. Nhóm nhân tố chủ quan

Thứ nhất, năng lực quản lý tài chính của các ngân hàng

Nguồn lực tài chính của các ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của ngân hàng đó. Chính vì vậy, năng lực quản lý nguồn lực tài chính nói chung và năng lực quản lý hoạt động kinh doanh nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó có thể làm giảm nguồn lực tài chính, gây khó khăn cho ngân hàng trong hoạt động kinh doanh, nhưng cũng có thể làm tăng lên nguồn lực tài chính, thúc đẩy sự phát triển của các ngân hàng.

Năng lực quản lý tài chính tốt thể hiện ở việc ngân hàng quản lý tốt khả năng sinh lời của vốn đầu tư, đồng thời luôn biết cách cơ cấu vốn một cách hài hòa, điều chỉnh luân chuyển vốn hợp lý; quản lý rủi ro, quản lý chi phí hoạt động kinh doanh tốt, nâng cao chất lượng tín dụng, giảm nợ tồn đọng có hiệu quả, giúp tiết kiệm chi phí kinh doanh, đồng thời tạo sự tăng trưởng cho lợi nhuận…



Tất cả những yếu tố này sẽ góp phần tăng cường và phát triển nguồn lực tài chính cho ngân hàng.

Thứ hai, trình độ áp dụng khoa học kỹ thuật và quản lý hiện đại

Khoa học kỹ thuật và quản lý hiện đại đã làm thay đổi rõ rệt hoạt động kinh doanh của các ngân hàng, tạo điều kiện cho các quy trình, nghiệp vụ ngân hàng được nhanh, chính xác, dễ kiểm tra, kiểm soát và hạch toán, ngoài ra, các ngân hàng có thể đa dạng các tiện ích trong dịch vụ, tạo nhiều khả năng lựa chọn hình thức dịch vụ cung ứng cho khách hàng. Vì vậy, áp dụng khoa học kỹ thuật và quản lý hiện đại sẽ giúp các ngân hàng tăng năng suất lao động, hạ thấp chi phí đầu vào, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ của các ngân hàng.

Thứ ba, chất lượng nguốn nhân lực

Con người là nguồn lực quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của ngân hàng. Khi một ngân hàng có đội ngũ cán bộ, nhân viên có trình độ chuyên môn cao, có phẩm chất đạo đức tốt thì ngân hàng đó sẽ hoạt động có hiệu quả cao và tạo được sự phát triển bền vững trên thị trường. Bởi lẽ, chính nguồn nhân lực có chất lượng này sẽ giúp ngân hàng có những chiến lược đúng đắn, có những định hướng phát triển mà các đối thủ cạnh tranh không thể có được, nhằm tạo vị thế, nâng cao khả năng của mình trên thị trường. Họ hoạt động linh hoạt hơn, năng động hơn và có thể có nhiều cách để thu hút khách hàng đến với mình. Hơn nữa, với đội ngũ cán bộ, nhân viên giàu chất xám này, họ sẽ giúp ngân hàng có thể tạo ra được nhiều sản phẩm, dịch vụ có nhiều tiện ích mới cho khách hàng, từ đó giúp mở rộng thị phần của ngân hàng trên thương trường.

Thứ tư, hoạt động marketing

Là một ngành kinh doanh có nhiều đối thủ cạnh tranh trên thị trường thì hoạt động marketing đối với các ngân hàng là rất cần thiết. Các ngân hàng muốn tạo nên khả năng cạnh tranh cao hơn các đối thủ khác thì trước hết họ phải nghiên cứu và nắm chắc nhu cầu, thị hiếu của từng đối tượng khách hàng, của từng thị trường cụ thể, để từ đó đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng mình, đồng thời đi đầu trong việc tạo ra những sản phẩm, dịch vụ mới nhằm thu hút khách hàng.



Hơn nữa, hoạt động marketing còn giúp quảng bá, khuếch trương các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng đến người dân, giúp người dân thêm hiểu biết về những tiện ích của các nghiệp vụ ngân hàng. Marketing còn giúp nâng cao hình ảnh, thương hiệu, uy tín và vị thế của các ngân hàng, tạo ra ấn tượng trong lòng khách hàng. Niềm tin của khách hàng đối với ngân hàng là hết sức quan trọng, vì khi đó, ngân hàng sẽ giữ chân được khách hàng, góp phần không nhỏ nâng cao khả năng cạnh tranh và tạo vị thế trên thị trường.

Thứ năm, các nhân tố khác

Các quyết định, định hướng từ các cấp thuộc ngành Ngân hàng cũng tác động không nhỏ đến sự phát triển của các ngân hàng, vì những quyết định đưa ra đúng hay sai sẽ gây ảnh hưởng tốt hay xấu đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng nói riêng và toàn ngành Ngân hàng nói chung. Đồng thời, cũng có tác động không nhỏ khi các NHTM trong nước cạnh tranh với các ngân hàng khác trên thị trường quốc tế.

1.2.4.2. Nhóm nhân tố khách quan:

Một là, sự biến động của nền kinh tế hội nhập

Sự biến động của nền kinh tế trong nước: Tốc độ tăng trưởng GDP là yếu tố đầu tiên của nền kinh tế trong nước ảnh hưởng đến ngành Ngân hàng. Khi nền kinh tế ở giai đoạn tăng trưởng cao sẽ tạo nhiều cơ hội cho đầu tư mở rộng, hoạt động của các doanh nghiệp sôi động hơn, các doanh nghiệp sẽ sẵn sàng vay vốn ngân hàng với số tiền lớn, lãi suất cao hơn và kỳ hạn dài hơn để đầu tư vào các dự án có nhiều tiềm năng. Các dịch vụ của ngân hàng như chu chuyển tiền, mua bán ngoại tệ, thanh toán quốc tế, thẻ tín dụng, thu hộ séc và chứng từ,… cũng sẽ được khách hàng sử dụng nhiều hơn. Ngược lại, khi nền kinh tế sa sút, suy thoái, dẫn đến giảm tiêu dùng và giảm đầu tư toàn xã hội, các khách hàng sẽ ít sử dụng các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng hơn. Vì vậy, sẽ kéo theo sự sa sút của ngành Ngân hàng trong nước.

Lạm phát cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến nền kinh tế, tỷ lệ lạm phát cao thì việc kiểm soát giá cả và đồng tiền càng khó khăn. Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp, lạm phát tăng cao thì rủi ro từ các dự án đầu tư sẽ cao hơn, việc kinh doanh sẽ khó khăn hơn rất nhiều, làm cho các doanh nghiệp hạn



chế đầu tư, không cần tới ngân hàng vay vốn. Bên cạnh đó, người dân sẽ hạn chế tích lũy tiền mà rút tiền ra khỏi ngân hàng để đầu tư và các tài sản ổn định hơn như bất động sản, vàng,…

Lãi suất cao hay thấp cũng ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế. Trong mỗi thời kỳ, mặt bằng lãi suất bao gồm lãi suất của các trung tâm tài chính quốc tế, lãi suất tái chiết khấu của các Ngân hàng Trung ương tại mỗi quốc gia sẽ làm ảnh hưởng tới việc quy định mức lãi suất của các NHTM và có tác động trở lại đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi ngân hàng. Lãi suất thấp sẽ kích thích các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng để mở rộng và phát triển kinh doanh trong dài hạn, nhưng cũng đồng thời không có sức thu hút được các nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư và ngược lại.

Tỷ giá hối đoái là một nhân tố có ảnh hưởng nhiều đến xuất nhập khẩu của một quốc gia, mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu là những khách hàng lớn và đầy tiềm năng của các ngân hàng. Vì vậy, tình hình tỷ giá hối đoái cũng sẽ ảnh hưởng đến các ngân hàng. Hơn nữa, do các ngân hàng luôn có một tỷ lệ đáng kể ngoại tệ trong tài sản của mình và nhiều ngân hàng trực tiếp kinh doanh ngoại tệ nên tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng trực tiếp đến các ngân hàng đó. Do vậy, các ngân hàng phải dự đoán được xu hướng biến động của tỷ giá để chủ động luân chuyển tài sản của mình từ loại tiền này sang loại tiền khác để làm giảm các rủi ro về hối đoái gây nên.

Sự biến đổi cơ cấu kinh tế bao gồm cơ cấu của ngành kinh doanh của quốc gia như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, du lịch… và cơ cấu các thành phần kinh tế như thành phần kinh tế Nhà nước, tập thể, tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Mỗi ngành kinh tế có một đặc tính riêng ảnh hưởng đến độ dài kỳ hạn vay tiền, mức độ rủi ro của các dự án vay vốn. Hơn nữa, nhu cầu và khả năng về vốn đối với từng ngành nghề kinh doanh, từng khu vực cũng khác nhau, nên các ngân hàng phải nhanh nhạy, linh hoạt trong hoạt động kinh doanh.

Sự biến động của nền kinh tế thế giới: Bên cạnh sự ảnh hưởng của nền kinh tế trong nước, thì tình hình kinh tế toàn cầu, kinh tế khu vực thể hiện ở tốc độ tăng trưởng GDP, tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu, đầu tư trực tiếp nước



ngoài, chỉ số giá, sự luân chuyển của các dòng vốn đầu tư quốc tế… cũng ảnh hưởng rất lớn đến lĩnh vực ngân hàng, mà cụ thể ảnh hưởng đến nghiệp vụ buôn bán ngoại tệ, ấn định tỷ giá, lãi suất, đầu tư tài chính và các giấy tờ có giá tại các thị trường tài chính quốc tế hoặc trực tiếp cho vay đối với các dự án nước ngoài.

Ở môi trường quốc tế, lĩnh vực ngân hàng còn bị ảnh hưởng không nhỏ của xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa nền kinh tế thế giới hiện nay. Chính xu thế này đã đẩy mạnh thương mại và đầu tư quốc tế, làm gia tăng cơ hội kinh doanh quốc tế, vừa làm tăng áp lực cạnh tranh trong cấu thành các sản phẩm đối với các ngân hàng. Thêm vào đó, xu thế tăng tỷ lệ trí tuệ trong cấu thành các sản phẩm cũng buộc các ngân hàng cần phải áp dụng công nghệ tiên tiến, phát triển các sản phẩm mang nhiều trí tuệ như: chương trình tư vấn tài chính cho các doanh nghiệp, thiết lập các hình thức giao dịch điện tử, hoặc các ngân hàng tham gia vào hoạt động kinh doanh của khách hàng.

Hai là, sự phát triển của khoa học và công nghệ trong môi trường hội nhập

Khoa học và công nghệ trên thế giới hiện nay phát triển rất nhanh chóng và ngày càng hiện đại. Chính sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ đã tác động rất lớn đến nhiều ngành nghề trong nền kinh tế, trong đó có ngành Ngân hàng. Thực tế cho thấy sự phát triển của khoa học và công nghệ đã thúc đẩy việc hiện đại hóa các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, tạo thuận lợi rất nhiều trong các giao dịch giữa khách hàng và ngân hàng, thu hút thêm nhiều khách hàng đến với các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng. Chính vì vậy, hiện đại hóa công nghệ ngân hàng là một tất yếu khách quan, quyết định sự sống còn của mỗi ngân hàng. Các ngân hàng phải nắm bắt được những công nghệ mới có liên quan để áp dụng một cách nhanh nhất nhằm cải tiến công nghệ ngân hàng, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng.

Ba là, sự tác động của môi trường văn hóa, xã hội, chính trị và pháp luật

Môi trường văn hóa, xã hội ảnh hưởng rất nhiều đến yếu tố con người, đối với khách hàng thì tác động đến thị hiếu, nhu cầu, thói quen tiêu dùng…; còn đối với cán bộ, nhân viên của ngân hàng thì ảnh hưởng đến phong cách làm việc, phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp… Tất cả đều có thể kích thích hay kìm hãm sự phát triển của các ngân hàng. Mặt khác, con người ngày càng mở rộng mối quan

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/05/2023