Năng Lực Cạnh Tranh Của Hệ Thống Ngân Hàng Thương Mại Trong


4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Là những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến cạnh tranhnăng lực cạnh tranh của hệ thống NHTM.

- Phạm vi nghiên cứu: Luận án nghiên cứu năng lực cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt nam ở môi trường kinh doanh trong nước. Từ đó, luận án tập trung nghiên cứu đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt Nam thời gian 2005-2013 để đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt Nam đến 2020.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu

- Về lý luận: Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, sự cạnh tranh của các NHTM ngày càng khốc liệt trong phạm vi rộng, cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống NHTM là những vấn đề lý luận cơ bản cần phải được thay đổi, hoàn thiện cho phù hợp với sự phát triển của hệ thống NHTM trong từng thời kỳ.

- Về thực tế: Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các NHTM Việt Nam hội nhập quốc tế bước đầu đã phát huy được những thế mạnh của mình. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt Nam chưa cao, thiếu tính bền vững.

Do vậy, việc nghiên cứu một cách hệ thống cả về lý luận và thực tiễn là hoàn toàn cần thiết, nhằm đề xuất các giải pháp hợp lý để nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt Nam.

6. Phương pháp nghiên cứu đề tài

Để hoàn thành luận án, NCS đã sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp luận chứng, bao gồm phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin; Phương pháp tiếp cận và thu thập thông tin, phân tích đánh giá và so sánh; Phương pháp nghiên cứu dự báo và nghiên cứu đề xuất giải pháp.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 181 trang tài liệu này.

7. Những đóng góp mới của luận án

- Luận án đã chắt lọc, kế thừa và hệ thống hóa, làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh của NHTM trong hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt đã phân tích rõ các nhân tố ảnh hưởng và đề xuất một hệ thống các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM.

Nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế - 3



- Đã chỉ ra được một số tác động (tích cực và tiêu cực) của hội nhập kinh tế quốc tế đến năng lực cạnh tranh của NHTM.

- Phân tích, đánh giá sâu sắc, chi tiết về thực trạng năng lực cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt Nam trong thời gian 2005 - 2013, từ đó rút ra một số kết quả, những tồn tại và nguyên nhân.

- Đề xuất một hệ thống các giải pháp đồng bộ và khả thi nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.

8. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình của tác giả đã công bố liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được chia làm 3 chương (142 trang).

Chương 1: Năng lực cạnh tranh của hệ thống Ngân hàng Thương mại trong

điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế (52 trang)

Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế (50 trang)

Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế (40 trang)



Chương 1

NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ


1.1. HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

1.1.1. Hệ thống Ngân hàng thương mại

1.1.1.1. Ngân hàng thương mại

NHTM là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế.

Vậy NHTM là gì?

Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét NHTM trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp. Theo Luật của Mỹ, bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền gửi cho phép khách hàng rút tiền theo yêu cầu và cho vay đối với các tổ chức kinh doanh, cho vay thương mại sẽ được xem là một NHTM.

Theo luật các tổ chức tín dụng (TCTD) số 47/2010/QH12 ngày 16/6/2010, NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của pháp luật nhằm mục tiêu lợi nhuận. Ngày nay, có rất nhiều tổ chức hoạt động trên một hoặc một số khía cạnh của NHTM. Kết quả của một số cuộc điều tra về dịch vụ ngân hàng đã cho thấy, NHTM đang trải qua những thay đổi mạnh mẽ trong chức năng và hình thức.

Như vậy, xét một cách chung nhất có thể thấy NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt hoạt động và kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng với sự thay đổi không ngừng về nội dung và hình thức.

Sự xuất hiện và tồn tại của NHTM cũng nhằm vào mục tiêu là phục vụ cho nhu cầu của xã hội (cho dù nhu cầu đó từ dân chúng, doanh nghiệp hay từ Chính phủ trong phạm vi quốc gia hay quốc tế) thông qua hình thức cung cấp các danh mục dịch vụ NHTM.

1.1.1.2. Hệ thống ngân hàng thương mại

Hệ thống - đó là tập hợp các thành phần, bộ phận được phối hợp với nhau một cách chặt chẽ và mang tính khoa học để có thể đạt được một số mục tiêu đề ra.



Một tập hợp được coi là hệ thống nếu có đủ ba đặc điểm chính:

Thứ nhất: Hệ thống bao gồm các thành phần, bộ phận (hay còn gọi là các phần tử) thường là có một số tính chất hay đặc điểm tương tự nhau.

Thứ hai: Các thành phần này được phối hợp với nhau theo một phương pháp hay một tiến trình xử lý nào đó, sẽ không có hệ thống nếu các phần tử chỉ đứng cạnh nhau một cách rời rạc, bởi vì mối quan hệ giữa các phần tử là vấn đề sống còn, tạo ra cho hệ thống các đặc trưng và các điều kiện vận hành.

Thứ ba: Sự phối hợp này nhằm đạt được một hay một số mục đích nhất định.

Như vậy, các NHTM nằm trong hệ thống là một tất yếu do các NHTM có đặc điểm, tính chất hoạt động tương tự nhau và luôn có sự phối hợp với nhau, cùng thực hiện một số tiến trình hoạt động để đạt được mục tiêu nhất định. Trong hệ thống NHTM, mỗi NHTM không kể nhiều hay ít chi nhánh đều là một phần tử của hệ thống, các chi nhánh của một NHTM không được coi là một phần tử của hệ thống vì chúng chỉ hoạt động theo sự ủy quyền của trung tâm (Hội sở chính) không thể tách rời để tự liên kết, phối hợp hoạt động với các ngân hàng khác một cách độc lập.

Hệ thống NHTM có những đặc trưng, điều kiện vận hành rất riêng, khác với các định chế tài chính khác ở chỗ:

- Các NHTM luôn có những giao dịch vay hoặc gửi tiền lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng… với mục đích đầu tư tạm thời lượng vốn tạm thời nhàn rỗi để kiếm lời hoặc tìm kiếm nguồn vốn giá rẻ hơn so với đi vay của NHTW. Những giao dịch này làm cho các NHTM phụ thuộc vào nhau bởi yếu tố thanh khoản, nên một NHTM trong hệ thống gặp rủi ro thanh khoản thì khả năng kéo theo rủi ro thanh khoản cho cả hệ thống NHTM là rất lớn.

- Do xuất hiện những nhu cầu tài chính đa dạng đã tạo cơ hội phát triển các ngân hàng đại lý. Các ngân hàng đại lý sẽ giúp các NHTM quy mô nhỏ thực hiện một số dịch vụ để tiết kiệm thời gian và chi phí đầu tư… như vậy đã làm sự gắn kết giữa các phần tử (các NHTM) trong hệ thống trở nên phức tạp, ràng buộc và chặt chẽ hơn.

- Để đáp ứng nhu cầu thanh toán đa dạng của khách hàng, giữa các NHTM hình thành một mạng lưới các kênh thanh toán, đây là hệ thống kênh



dẫn, kết nối giữa các ngân hàng lại với nhau, giúp cho luồng vốn của nền kinh tế được thông suốt.

Như vậy: Hệ thống NHTM là đó là tập hợp các NHTM được phối hợp với nhau một cách chặt chẽ và mang tính khoa học để có thể đạt được một số mục tiêu đề ra.

1.1.2. Hội nhập kinh tế quốc tế

1.1.2.1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế

Hội nhập kinh tế quốc tế, theo quan niệm đơn giản nhất và phổ biến trên thế giới, là việc các nền kinh tế gắn kết lại với nhau. Theo cách hiểu này, hội nhập kinh tế đã diễn ra từ hàng ngàn năm nay và hội nhập kinh tế với quy mô toàn cầu đã diễn ra từ cách đây hai nghìn năm khi đế quốc La Mã xâm chiếm thế giới và mở mang mạng lưới giao thông, thúc đẩy lưu thông hàng hóa trong toàn bộ lãnh địa chiếm đóng rộng lớn và áp đặt đồng tiền của họ cho toàn bộ các nơi.

Hội nhập kinh tế, hiểu theo một cách chặt chẽ hơn, là việc gắn kết mang tính thể chế giữa các nền kinh tế lại với nhau. Khái niệm này được Besla Balassa đề xuất từ thập niên 1960 và được chấp nhận chủ yếu trong giới học thuật và lập chính sách. Nói rõ hơn, hội nhập kinh tế là quá trình chủ động thực hiện đồng thời hai việc: một mặt, gắn nền kinh tế và thị trường từng nước với thị trường khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực thực hiện mở cửa và thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế quốc dân; và mặt khác, gia nhập và góp phần xây dựng các thể chế kinh tế khu vực và toàn cầu.

Hội nhập kinh tế có thể là song phương - tức là giữa hai nền kinh tế, hoặc khu vực - tức là giữa một nhóm nền kinh tế, hoặc đa phương - tức là có quy mô toàn thế giới giống như những gì mà Tổ chức Thương mại Thế giới đang hướng tới. Về cấp độ hội nhập thường được phân chia thành sáu cấp độ: khu vực / hiệp định thương mại ưu đãi, khu vực / hiệp định thương mại tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, liên minh kinh tế tiền tệ, và hội nhập toàn diện.

1.1.2.2. Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế

Trong bối cảnh kinh tế ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu và là một yêu cầu khách quan đối với bất kỳ quốc gia nào trong quá trình phát triển. Xu hướng này ngày càng hình thành rõ nét, đặc biệt là nền kinh tế



thị trường đang trở thành một sân chơi chung cho tất cả các nước; thị trường tài chính đang mở rộng phạm vi hoạt động gần như không biên giới, vừa tạo điều kiện cho tăng cường hợp tác, vừa làm sâu sắc và gay gắt thêm quá trình cạnh tranh.

Với những quốc gia đang phát triển, đang trong quá trình chuyển đổi, yêu cầu hội nhập kinh tế càng trở nên cấp thiết và có ý nghĩa; nó đòi hỏi các quốc gia này không thể đứng ngoài tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trên tất cả các mặt nếu muốn thành công trong phát triển kinh tế. Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế đòi hòi các quốc gia trên thế giới phải tham gia ngày một sâu rộng hơn vào các giao lưu kinh tế quốc tế, đặc biệt về thương mại, tài chính, đầu tư và việc tham gia vào các cơ chế kinh tế - thương mại quốc tế ở quy mô toàn cầu và khu vực.

Khi hội nhập kinh tế quốc tế sẽ mang lại những lợi ích căn bản, lâu dài nhất là đối với những quốc gia có khả năng điều chỉnh cơ cấu kinh tế và các chính sách thích hợp. Nó cũng sẽ tạo ra cơ hội để các nước có thể cùng hợp tác, thống nhất tạo sức mạnh đủ sức cạnh tranh và đàm phán với các quốc gia lớn, ngăn ngừa được khả năng bị chèn ép, bị cô lập trong đàm phán - thực hiện thương mại và đầu tư quốc tế. Qua đó, vị thế quốc gia sẽ ngày càng được nâng cao. Đây cũng chính là lý do căn bản mà phần lớn các nước, các tổ chức kinh tế khu vực, thế giới cam kết thúc đẩy quá trình cải cách phát triển kinh tế gắn với hội nhập quốc tế. Song song với những lợi ích và cơ hội do hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra, các quốc gia cũng sẽ đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức đặc biệt trong vấn đề áp lực cạnh tranh ngày càng cao ngay cả trên thị trường trong từng nước. Đấy chính là động lực quan trọng để thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước phải cơ cấu lại sản xuất, nâng cao trình độ quản lý và nâng cao khả năng cạnh tranh.

Trên thực tế, đã có không ít quốc gia thành công sau quá trình hội nhập và đã trở thành những nước công nghiệp mới (NICs-New Industry Countries) nhờ tham gia tích cực vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, họ cũng đã phải đối mặt và chịu nhiều thiệt thòi trước những nguy cơ thách thức trong giai đoạn đầu của quá trình hội nhập. Việc áp dụng các nguyên tắc của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) hay thực hiện các hiệp định thương mại song phương, đa



phương đòi hỏi các nước, nhất là các nước đang phát triển, phải điều chỉnh sâu sắc các chính sách kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh và điều chỉnh cơ cấu kinh tế cho phù hợp. Thực tế cho thấy, càng tích cực và chủ động hội nhập bao nhiêu thì các chi phí và thua thiệt trong giai đoạn đầu hội nhập càng thấp so với việc kéo dài quá trình hội nhập.

Hội nhập kinh tế quốc tế luôn song hành với hai mặt: được và mất. Tuy nhiên, không một quốc gia nào được tất cả và cũng không một quốc gia nào mất tất cả, chỉ có một tình huống chắc chắn mất hết đó là co mình lại, đóng cửa và cự tuyệt, khước từ với xu hướng hội nhập.

1.1.3. Hệ thống Ngân hàng thương mại hội nhập kinh tế quốc tế

1.1.3.1. Khái niệm

Trong lĩnh vực ngân hàng, hội nhập quốc tế là quá trình mở cửa để đưa hệ thống ngân hàng trong nước hòa nhập với hệ thống ngân hàng khu vực và thế giới, hoạt động ngân hàng không còn bó hẹp trong phạm vi một nước, một khu vực mà mở rộng trên phạm vi toàn cầu.

Hoạt động ngân hàng phải luôn cạnh tranh trong khuôn khổ pháp lý, tuân thủ các nguyên tắc kinh doanh quốc tế, hoạt động ngân hàng được thực hiện theo tín hiệu thị trường mà không bị ngăn chặn bởi các biện pháp quản lý hành chính, lãi suất, tỷ giá, hoạt động tín dụng do thị trường quyết định.

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của hệ thống ngân hàng có thể hiểu là quá trình cải cách từng bước hệ thống ngân hàng xuất phát từ yêu cầu thực tế của quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế quốc gia, vì có như vậy, hệ thống ngân hàng mới có thể đảm nhiệm và phát huy được vai trò trung gian tài chính của mình trong bối cảnh nền kinh tế với nhiều biến động phức tạp của thị trường quốc tế nói chung và thị trường nội địa nói riêng.

Khi hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng đòi hỏi chính phủ và ngân hàng nhà nước phải xóa bỏ những ưu đãi, tiến tới cạnh tranh bình đẳng giữa các ngân hàng trong và ngoài nước. Do đó, mức độ hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với mức độ tự do hóa tài chính - tiền tệ. Việc thực hiện tự do hóa tài chính - tiền tệ càng sâu rộng có hiệu quả thì việc hội nhập ngân hàng càng thuận lợi.



Như vậy, căn cứ vào cả lý luận và thực tiễn phát triển của các nền kinh tế thế giới đều khẳng định rằng: một quốc gia muốn tồn tại, phát triển ổn định và bền vững cần phải chủ động hội nhập quốc tế, đặc biệt là chủ động hội nhập thành công lĩnh vực tài chính ngân hàng - lĩnh vực nhạy cảm và trọng yếu của nền kinh tế quốc dân.

1.1.3.2. Xu hướng tất yếu hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng

Hệ thống Ngân hàng thương mại hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan, xuất phát từ các lý do sau:

Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế trở thành một xu thế thời đại và diễn ra mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực. Theo đó, song song với việc vươn ra thị trường thế giới, Việt Nam cũng phải mở cửa thị trường trong nước, trong đó có lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Trong bối cảnh chung đó, hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam phải chủ động nhận thức và sẵn sàng tham gia vào quá trình hội nhập và cạnh tranh vì khi đó thị trường trong nước không còn mức độ bảo hộ cao như trước, các ngân hàng sẽ phải cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu và cạnh tranh ngay tại sân nhà.

Thứ hai, sản xuất hàng hoá càng phát triển, hàng hoá bán ra càng nhiều, số lượng người cung cấp càng đông. Muốn tồn tại và phát triển thì buộc các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau. Kết quả là một số doanh nghiệp bị thua cuộc và bị gạt ra khỏi thị trường, trong khi một số khác vẫn tồn tại và phát triển hơn nữa. Cạnh tranh diễn ra mọi lúc, mọi nơi không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của riêng ai nên cạnh tranh trở thành một quy luật quan trọng thúc đẩy sự phát triển. Mọi doanh nghiệp, không phân biệt thành phần kinh tế, đều phải tự mình vận động để đứng được trong cơ chế này. Doanh nghiệp nào không thích nghi được sẽ cầm chắc sự phá sản và bị đào thải. Sẵn sàng chấp nhận cạnh tranh và không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh là một vấn đề sống còn đối với mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh. Đặc biệt trong giai đoạn hội nhập hiện nay, doanh nghiệp chỉ có thể phát triển được khi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được nâng cao.

Thứ ba, thực tế cho thấy, không một ngân hàng nào có khả năng thỏa mãn

đầy đủ tất cả những yêu cầu của khách hàng. Thường thì một ngân hàng có lợi

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/05/2023