1.2.5.2. Tác động tiêu cực
a. Tác động tiêu cực tới hệ thống tài chinh và nên kinh tế trong nước
Một số nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng, việc tham gia ngày càng nhiều và càng sâu của các ngân hàng nước ngoài vào thị trường trong nước cũng nảy sinh những tác động tiêu cực đối với hệ thống tài chính và nền kinh tế tại các quốc gia đang phát triển. Do có khả năng năm bắt thông tin trên toàn cầu và có nhiều lựa chọn về địa điểm đầu tư, vì vậy, các ngân hàng nước ngoài thường có xu hướng “bỏ chạy” khi mà sự đầu tư của họ không đạt như mong đợi. Ngược lại, các nhà đầu tư trong nước thường có lợi ích bất di bất dịch nên không thể bỏ ngay được sự đầu tư của họ và do đó thường chịu các chi phí giao dịch cao hơn.
Quá trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng càng mạnh mẽ thì sự tác động và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các thị trường tài chính có thể xẩy ra. Là một trong các tập đoàn tài chính ngân hàng có quy mô hoạt động trên toàn cầu, vì vậy các chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoặc ngân hàng con của họ có thể không bị ảnh hưởng tiêu cực trong những thời điểm mà hệ thống ngân hàng, tài chính của quốc gia nơi họ đầu tư bị rơi vào tình trang khó khăn. Tuy nhiên, do các tập đoàn ngân hàng quốc tế luôn áp dụng thống nhất một chính sách chung cho các ngân hàng con, chi nhánh của mình trên toàn cầu, chính vì vậy trong trường hợp có một sự kiện xảy ra tại một quốc gia nào đó hoặc để đối phó với những cú sốc từ chính quốc gia của ngân hàng mẹ, các ngân hàng nước ngoài thường áp dụng những chính sách hoặc những cơ chế có thể gây tác động tiêu cực đến hệ thông ngân hàng, tài chính nước sở tại.
Nghiên cứu thực nghiệm của Peek và Rosengren (1997, 2000) đã chỉ ra rằng những vấn đề của hệ thống tài chính, ngân hàng của Nhật Bản xảy ra vào cuối những 80 và đầu những năm 90 đã lan truyền sang nước Mỹ thông qua hoạt động các ngân hàng Nhật Bản tại thị trường Mỹ. Thêm vào đó, một nghiên cứu khác của Golderg (2001) đã chỉ ra rằng ảnh hưởng của các ngân hàng Mỹ đối với các quốc gia đang phát triển thường phản ánh tình trạng và những biến động về điều kiện nền kinh tế của nước Mỹ hơn là sự tăng trưởng và lãi suất của các nước đang phát triển nơi mà họ có các chi nhánh hoặc ngân hàng con hoạt động. Đặc biệt khi chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoặc ngân hàng con chiếm lĩnh
phần lớn trong quy mô hoạt động và vốn chủ sở hữu ngân hàng con chiếm lĩnh phần lớn trong quy mô vốn sở hữu trong tổng số các ngân hàng nước ngoài có mặt tại nước sở tại (quốc gia nơi mà các ngân hàng nước ngoài có chi nhánh hoặc ngân hàng con) thì tác động tiêu cực có thể xảy ra đối với nền kinh tế của quốc gia sở tại trong trường hợp có một cú sốc xảy ra tại quốc gia của ngân hàng mẹ. Theo một nghiên cứu của Hull (2002), trong số 5 ngân hàng nước ngoài lớn nhất tại New Zealand chiếm trên 90% tổng tài sản của hệ thống ngân hàng có 4 ngân hàng Australia. Hull kết luận rằng, chính sự tập trung sở hữu của các nhà đầu tư Australia và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa hai nền kinh tế New Zealand và Australia có thể dẫn đến việc nếu nền kinh tế Australia bị mất ổn định thì nó có khả năng ảnh hưởng tiêu cực đến New Zealand. Ở nhiều quốc gia Châu Mỹ La Tinh, các ngân hàng của Tây Ban Nha đã chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống ngân hàng của các quốc gia này.
b. Tác động đến hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng trong nước
Có thể bạn quan tâm!
- Chỉ Tiêu Đánh Giá Năng Lực Cạnh Tranh Của Hệ Thống Ngân Hàng Thương Mại
- Chỉ Tiêu Đánh Giá Năng Lực Về Công Nghệ Thông Tin
- Tác Động Của Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế Đối Với Hệ Thống Ngân Hàng Thương Mại
- Cho Phép Các Tổ Chức Tài Chính Nước Ngoài Mua Cổ Phần Hạn Chế Trong Một Số Nhtm Nhà Nước
- Mô Hình Tổ Chức Điển Hình Của Các Nhtm Việt Nam
- Vốn Điều Lệ Của Một Số Nhtm Việt Nam Tính Đến 15/6/2012
Xem toàn bộ 181 trang tài liệu này.
Các nghiên cứu gần đây cho thấy có sự khác biệt trong việc tham gia thị trường của các ngân hàng nước ngoài vào các quốc gia đang phát triển và các quốc gia công nghiệp phát triển. Ở các quốc gia đang phát triển, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại đây thường có chênh lệch lãi suất đầu ra và lãi suất đầu vào cao hơn, có khả năng sinh lợi cao hơn so với các ngân hàng trong nước; trong khi đó ở quốc gia công nghiệp phát triển thì tình hình lại ngược lại.
Các nghiên cứu cũng cho thấy rằng, với sự tham gia ngày càng nhiều của các ngân hàng nước ngoài sẽ làm cho chênh lệch lãi suất cho vay, khả năng sinh lợi và chi phí chung của các ngân hàng trong nước giảm đi. Thêm vào đó, các tác động đến hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng nước ngoài đối với hệ thống ngân hàng trong nước thường xảy ra ngay sau khi có sự gia nhập của các ngân hàng này vào thị trường trong nước và không phụ thuộc vào thị phần mà họ chiếm lĩnh sau khi gia nhập.
c. Tác động đến danh mục tín dụng của các ngân hàng trong nước
Thực tế cho thấy, trong một số trường hợp, sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài không đóng vai trò tích cực trong việc phân bổ hiệu quả các nguồn vốn tín dụng cho nền kinh tế. Trong nhiều trường hợp, các ngân hàng nước ngoài
chỉ “chọn miếng ngon” và tình trạng này rất phổ biến ở các quốc gia kém phát triển. Các ngân hàng nước ngoài chỉ chọn những khách hàng làm ăn có lãi, rủi ro thấp nhất và đẩy các doanh nghiệp còn lại được coi là có mức độ rủi ro cao hơn cho ngân hàng trong nước làm cho danh mục tín dụng của các ngân hàng trong nước trở nên rủi ro hơn. Khi các ngân hàng nước ngoài thực hiện chiến dịch “chọn miếng ngon” thì họ chỉ chọn những khách hàng khỏe mạnh, có độ tín nhiệm cao và thông thường họ đánh giá mức độ rủi ro tốt hơn các ngân hàng trong nước, hoặc họ tìm cách khác để chuyển rủi ro cho phía ngân hàng trong nước như chỉ cho vay bán buôn, cho vay thông qua các ngân hàng trong nước.
d. Tác động đến nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao
Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, khi các tập đoàn ngân hàng nước ngoài tham gia mở chi nhánh hoặc thành lập ngân hàng con ở các thị trường của các quốc gia đang phát triển trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa, chi nhánh các ngân hàng nước ngoài hoặc ngân hàng con thường nhanh chóng thu hút một lực lượng lao động có trình độ cao vào làm việc do có chế độ tiền lương hấp dẫn. Thông thường, mức lương bình quân mà các chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoặc ngân hàng con của họ trả cho lao động có trình độ cao gấp khoảng 4 đến 6 lần so với các ngân hàng trong nước trả. Chính vì vậy, các ngân hàng nước ngoài sẽ nhanh chóng thu hút được nguồn nhân lực có chất lượng tốt nhất từ các ngân hàng trong nước sang làm việc. Hiện tượng “chảy máu chất xám” này rất phổ biến và trở thành một xu hướng tất yếu ở các quốc gia đang phát triển khi quá trình hội nhập kinh tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ và sâu sắc.
Nếu không có chính sách thu hút, tuyển dụng, đãi ngộ và phát triển nguồn nhân lực đúng đắn và phù hợp, chắc chắn các ngân hàng trong nước sẽ bị mất đi một lực lượng cán bộ tốt nhất của họ. Rõ ràng là, yếu tố con người đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với bất kỳ một tổ chức, định chế nào. Nó quyết định sự thành công của tổ chức đó đặc biệt trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, khắc nghiệt và trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Có được lực lượng cán bộ có trình độ cao, được đào tạo căn bản sẽ góp phần chủ chốt trong việc tiếp cận và nắm bắt những yêu cầu mới, công nghệ tiên tiến và đòi hỏi của một tổ chức trong quá trình hội nhập quốc tế.
e. Tác động đến hoạt động quản lý, giám sát trong hoạt động ngân hàng
Sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài vào thị trường trong nước cũng đồng nghĩa với việc nhập khẩu công nghệ quản lý cho ít nhất một bộ phận của hệ thống ngân hàng và có thể sẽ góp phần cải thiện chất lượng cán bộ và chuẩn mực thanh tra giám sát ngân hàng. Tuy nhiên, một số nhà quan sát lại cho rằng khi hoạt động ngân hàng vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia thì vấn đề giám sát, quản lý lại trở nên phức tạp. Trong quá trình hội nhập quốc tế, các hệ thống ngân hàng ở mỗi quốc gia đều gắn kết chặt chẽ và phụ thuộc, chế ước lẫn nhau trong hoạt động của mình, vì vậy cần phải có những giải pháp mang tính chuẩn mực về mọi khía cạnh trong hoạt động thanh tra giám sát ngân hàng.
1.3. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG MÔI TRƯỜNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.3.1. Kinh nghiệm quốc tế
Xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng đã trở thành áp lực buộc các nước đang phát triển phải có những biện pháp tích cực nhanh chóng nâng cao năng lực của các NHTM trong nước. Từ những năm 90 trở lại đây, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 ở Đông Nam Á thì các NHTM ở Đông Nam Á, Trung Quốc và kể cả Nhật Bản đã bộc lộ những yếu kém về năng lực của mình như: Nợ quá hạn cao, các tỷ lệ an toàn thấp, công nghệ lạc hậu... Chính vì thế việc nâng cao năng lực cạnh tranh đã trở thành một trào lưu trong những năm qua và không chỉ diễn ra đối với các NHTM của các nước đang phát triển mà cả các nước phát triển với các NHTM mạnh. Đây là một vấn đề cần được đánh giá để rút ra những bài học kinh nghiệm cho hoạt động NHTM Việt Nam.
1.3.1.1. Tự do hoá thị trường tài chính
Tự do hoá thị trường tài chính là một trong những điều kiện tiền đề cho quá trình hội nhập, hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường phát triển như các nước khu vực Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, có nhiều năm kinh nghiệm trong quá trình hội nhập. Các nước này đã thực hiện tự do hoá thị trường tài chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển các luồng vốn từ nước này sang nước khác bằng việc thả nổi các giao dịch ngoại hối; thả nổi lãi suất, lãi suất được xác
định trên cơ sở cung cầu trên thị trường, Nhà nước chỉ tham gia với vai trò điều tiết vĩ mô mà không can thiệp trực tiếp.
Kinh nghiệm rút ra từ một báo cáo của WB cho thấy “tự do hoá tài chính cần phải tiến hành song song với cải cách kinh tế vĩ mô, những cố gắng tự do hoá tài chính trước khi thực hiện những cải cách sẽ phải chịu tác động của các hiện tượng như: dòng vốn không ổn định, tỷ lệ lãi suất cao và công ty bị khốn đốn”.
1.3.1.2. Đặt mục tiêu nâng cao năng lực tài chính
Đặt mục tiêu nâng cao năng lực tài chính diễn ra mạnh mẽ tại từng ngân hàng, đặc biệt là những NHTM Nhà nước, các NHTMQD ở Trung Quốc, cụ thể tại Ngân hàng xây dựng; Ngân hàng công thương, đã đặt mục tiêu trong chiến lược củng cố sức cạnh tranh của mình như:
+ Xây dựng cơ chế ngân hàng tự chịu trách nhiệm đầu tư, tự quản lý các khoản vay của mình, tăng cường tính minh bạch và giảm nợ xấu. Đồng thời, tăng cường khả năng quản lý giám sát nội bộ của các NHTM, thực hiện tinh giảm biên chế và nâng cao hiệu quả trong các ngân hàng.
+ Cải thiện cơ sở hạ tầng thông tin để trở thành một ngân hàng toàn cầu có khả năng quản lý vốn tầm cỡ quốc tế. Nâng cao khả năng sử dụng ngân hàng điện tử của các tổ chức, phát triển phần mềm để giúp cho việc thẩm định và đánh giá rủi ro tín dụng.
1.3.1.3. Cấp thêm vốn và cổ phần hoá các NHTM Nhà nước - cơ cấu lại ngân hàng - xử lý nợ xấu
+ Tại Trung Quốc: Chính phủ Trung Quốc quyết định bỏ ra 45 tỷ USD từ quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia để hiện đại hoá hai ngân hàng quốc doanh là Bank of China và Ngân hàng Xây dựng với mục đích chính là tăng cường các chỉ số phản ánh năng lực cân đối về vốn, cũng như chuyển đổi từ hình thức quốc doanh sang cổ phần.
Năm 1998, Trung Quốc thông báo bắt đầu áp dụng các quy tắc, quy định, định mức và tỷ lệ an toàn theo chuẩn mực của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS), tỷ lệ an toàn vốn (CAR) được nâng lên mức 8%; những quy định mới về phân loại khoản vay. Nhờ đó, bức tranh toàn cảnh về số nợ dưới chuẩn trở nên rõ ràng hơn và hình thành kế hoạch làm sạch bảng cân đối kế toán của các NHTM nhà nước. Bốn công ty quản lý tài sản được thành lập để xử lý toàn bộ số nợ dưới
chuẩn ước tính lên đến 670 tỷ nhân dân tệ (NDT), những công ty này được trao quyền ngoại lệ đặc biệt để xử lý, mua lại nợ xấu, thậm chí đầu tư và sinh lời từ đó. Số nợ xấu của các DNNN chiếm tới 70% tổng dư nợ trong hệ thống ngân hàng được đưa ra ngoài bảng cân đối kế toán để xử lý. Sau đó, Chính phủ dành ra 40 tỷ NDT dự trù ngân sách trong năm 1998 cho mục đích xóa nợ xấu của những DNNN này. Con số này là 30 tỷ NDT trong năm trước đó và tương tự các năm sau đều có khoản dự trù ngân sách dành để xóa nợ xấu. Đồng thời, những DNNN có nợ xấu được sắp xếp lại nhằm ngăn ngừa nguy cơ làm giảm chất lượng tài sản của những ngân hàng cho vay vốn. Đối với vấn đề thanh khoản, kế hoạch tái cấp vốn cho các NHTM nhà nước được triển khai song song. Số vốn yêu cầu được huy động theo cơ chế ngoài ngân sách, nghĩa là bằng công cụ trái phiếu chính phủ được phát hành với thời hạn 30 năm.
Bước tiếp theo, Chính phủ Trung Quốc khuyến khích các NHTM nhà nước xúc tiến kế hoạch niêm yết trên TTCK. Động thái này buộc các ngân hàng phải xây dựng cơ chế quản trị theo chuẩn quốc tế, kinh doanh theo định hướng thương mại nhiều hơn, nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành, tăng cường tính minh bạch trong hoạt động, kế hoạch đầu tư và trên sổ sách kế toán. Nhằm tạo ra môi trường lành mạnh để tránh cho các ngân hàng rơi vào vòng luẩn quẩn của làn sóng nợ dưới chuẩn mới phát sinh, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc kiên quyết yêu cầu các ngân hàng cải thiện chất lượng công tác quản trị doanh nghiệp, vì đó là bước đầu tiên trong việc quản trị rủi ro ngân hàng. Từng ngân hàng được yêu cầu lập kế hoạch với những chỉ tiêu cụ thể về chuyển đổi mô hình kinh doanh, giới thiệu dịch vụ khác biệt, kế hoạch quản trị rủi ro tổng thể, ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển nguồn nhân lực...
+ Tại Nhật Bản: Vào giữa những năm 1980, với cam kết của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản là sẽ giữ ổn định tỷ giá đồng Yên, các công ty chỉ tập trung vào hoạt động sản xuất, phó thác việc tạo vốn cho các ngân hàng khiến nền kinh tế tăng trưởng nhanh, mức đầu tư lớn (khoảng 30% GDP). Giá bất động sản tăng nhanh liên tục, làm tăng giá trị tài sản thế chấp. Những khoản vay lại tiếp tục được đầu tư vào bất động sản và thị trường cổ phiếu, khiến ”bong bóng” bất động sản ngày một bị bơm căng. Các thống kê cho thấy, giá
bất động sản và cổ phiếu tăng vọt từ năm 1987 - 1990 đã làm tăng sự giàu có của Nhật Bản lên gấp 4 lần.
Toàn bộ quốc đảo Nhật Bản chỉ chiếm 0,3% diện tích thế giới nhưng có thời điểm, giá trị đất đai của Nhật Bản quy đổi chiếm tới 60% giá trị đất đai của toàn thế giới. Sự bùng nổ của TTCK Nhật Bản cũng không giống bất cứ một nước công nghiệp nào khác. Năm 1988, chỉ tính riêng giá trị cổ phần của Công ty điện thoại NTT đã lớn hơn toàn bộ giá trị các hãng lớn của Đức (như Daimler, Siemen, Alianz, Krupp, Thyssen, BMW, Bayer, Hoechst, BASF) và ngân hàng Đức cộng lại. Chỉ số P/E của doanh nghiệp Nhật Bản lúc đó lên tới 90 - 100, trong khi đó, mức trung bình ở các nước phương Tây là 17 - 20. Đến năm 1990, nền kinh tế bị tăng trưởng quá nóng và hậu quả là “bong bóng” bất động sản vỡ tung. Giá bất động sản và cổ phiếu tụt dốc nhanh chóng mà “nhà tài trợ chính” cho tất thảy các hoạt động này lại chính là các ngân hàng Nhật Bản. Do vậy, khi giá tài sản giảm mạnh và kéo dài thì giá trị tài sản thế chấp cũng vì thế mà giảm theo, các doanh nghiệp con nợ bị thua lỗ hàng loạt, nợ quá hạn và nợ khó đòi tăng cao đã gây ra cuộc khủng khoảng tín dụng trong hệ thống ngân hàng.
Chỉ tính đến tháng 3/1997, tổng số nợ quá hạn trong hệ thống ngân hàng đã lên tới trên 585 nghìn tỷ yên (khoảng 4 nghìn tỷ USD). Nhiều NHTM hầu như không thu hồi được vốn. Tỷ lệ nợ khó đòi ở một số ngân hàng chiếm tới 13% tổng dư nợ. Theo thống kê, đến tháng 7/1998, tổng số thua lỗ của các ngân hàng Nhật Bản là 100 nghìn tỷ yên, khoảng 556 tỷ USD. Tình trạng này đã buộc nhiều ngân hàng Nhật Bản phải đóng cửa chi nhánh ở nước ngoài để tập trung nguồn vốn giải quyết vấn đề nợ trong nước, trong đó, có các tên tuổi lớn như Nippon Credit, Sumitomo, Sakura, Sanwa và Fuji.
Làn sóng phá sản của các tổ chức tài chính lên tới cao trào vào cuối năm 1997 khi có tới 5 tổ chức tài chính lớn của Nhật bị phá sản, với những món nợ khổng lồ, trong đó, có Ngân hàng Tokyo và Ngân hàng Hokkaido, với món nợ không có khả năng thanh toán lần lượt là 59 tỷ yên và gần 200 tỷ yên. Thêm nữa, 20 ngân hàng lớn nhất tại Nhật Bản đã phải tuyên bố xóa nợ khó đòi với tổng số nợ lên tới 7.000 - 8.000 tỷ yên.
Hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính Nhật Bản trong tình trạng gần như tê liệt hoàn toàn. Trước đó Chính phủ Nhật Bản có kế hoạch rót 13 nghìn tỷ
yên và đề nghị khoản hỗ trợ trị giá 50 nghìn tỷ yên dưới hình thức trái phiếu và các phiếu bảo đảm của chính phủ vào tháng 2/1998; trong đó, dành riêng 13 nghìn tỷ yên để hỗ trợ vốn cho các ngân hàng và khu vực tài chính và 17 nghìn tỷ yên để bảo vệ người gửi tiền. Số tiền này được chuyển cho công ty bảo hiểm tiền gửi Nhật Bản để thanh toán, hoặc để mua chứng khoán ưu đãi của các ngân hàng yếu có thể mất khả năng thanh toán và hỗ trợ cho Quỹ Bồi thường tiền gửi và chứng khoán được Chính phủ đứng ra bảo lãnh các khoản vay của ngân hàng Nhật Bản và các trái phiếu do quỹ này phát hành. Cũng thời điểm đó, Chính phủ Nhật Bản vừa quyết định cấp ngân sách bổ sung 43 nghìn tỷ yên để vực dậy hệ thống ngân hàng của nước này. Ngân hàng Công nghiệp Nhật Bản là ngân hàng đầu tiên yêu cầu được rót thêm tiền từ công quỹ để phục hồi ổn định. Việc làm này sẽ cho phép bơm tiền của Nhà nước vào một ngân hàng, một công ty tài chính hay một công ty chứng khoán bị phá sản để tái bảo hiểm cho các nhà đầu tư, tăng trách nhiệm trả nợ tài sản và ngăn ngừa việc mất tín nhiệm trên TTCK. Bộ Tài chính Nhật Bản cũng quyết định nới lỏng các tiêu chuẩn đánh giá rủi ro của thương phiếu do ngân hàng nắm giữ, nhằm giúp các ngân hàng dễ dàng hơn trong việc đáp ứng yêu cầu của ngân hàng thanh toán quốc tế. Ngoài ra, Bộ Tài chính Nhật cũng quyết định hạ lãi suất cho vay ngắn hạn nhằm tạo cơ hội cho các ngân hàng Nhật Bản có thể vay được các khoản tín dụng ngắn hạn để đầu tư vào chứng khoán dài hạn và thu được lợi nhuận. Lãi suất tái chiết khấu của NHTW cũng được giảm từ 0,5% xuống còn 0,25%, mức thấp nhất kể từ trước tới nay nhằm giảm bớt gánh nặng cho các NHTM. Thậm chí, Thống đốc NHTW Nhật Bản, ông Hayami Masaru còn tuyên bố: Nếu áp dụng mức 0% có thể kéo nền kinh tế lên thì NHTW sẵn sàng áp dụng mức lãi suất này.
+ Tại Mỹ: Năm 2008 “bong bóng” bất động sản (BĐS) xuất hiện tại Mỹ với trên một triệu chủ nhà đất đối mặt với nguy cơ tịch thu tài sản thế nợ. Các khoản nợ xấu khiến nhiều ngân hàng thua lỗ nặng. Nhiều ngân hàng phải tiến hành sáp nhập và thậm chí tuyên bố phá sản như: Lehman Brothers, Merrill Lynch, Countrywide Financial, Bear Stearns, Ameribank... Nguyên nhân là do: “bong bóng” BĐS “vỡ”. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến các ngân hàng "sống dở chết dở". Trước năm 2006, lợi nhuận đã tạo động lực khiến các ngân hàng Mỹ xem nhẹ khả năng chi trả của khách hàng, đẩy mạnh cho vay cầm cố