+ Về thời giam: Từ năm 2000 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu.
- Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử đặc biệt là phương pháp của kinh tế chính trị.
- Ngoài ra đề tài này cũng sử dụng thêm phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp thống kê, dự báo và một số mô hình minh họa các số liệu về tình hình sản xuất, xuất khẩu cà phê thời gian qua.
6. Đóng góp của luận văn.
- Đưa ra hệ thống tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh và các nhân tố tạo dựng lợi thế cạnh tranh bền vững của cà phê Việt Nam.
- Khuyến nghị các giải pháp thích hợp giúp ngành cà phê Việt Nam đạt được lợi thế cạnh tranh bền vững trong quấ trình hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn được chia làm 3 chương :
Chương 1: Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm quốc tế về cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm.
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao năng lực cạnh tranh cho cà phê Việt Nam - 1
- Sự Khác Biệt Của Hàng Hoá Cung Ứng Cho Thị Trường
- Kinh Nghiệm Của Một Số Nước Về Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Của Ngành Cà Phê
- Phân Tích Thực Trạng Năng Lực Cạnh Tranh Của Cà Phê Việt Nam
Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của cà phê Việt Nam từ năm 2000 đến nay.
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của cà phê Việt Nam.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
VỀ CẠNH TRANH VÀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH SẢN PHẨM
1.1. Cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh, các cấp độ cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
1.1.1.1. Cạnh tranh
Cạnh tranh là khái niệm được dùng phổ biến trong các nghiên cứu gần đây, nhưng thế nào là cạnh tranh thì vẫn còn những cách hiểu khác nhau. Các học giả thuộc trường phái tư sản cổ điển cho rằng "Cạnh tranh là cuộc đấu tranh đối kháng giữa các nhà sản xuất hàng hoá nhằm giành điều kiện thuận lợi nhất về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá nhằm thu lợi nhuận tối đa". Theo cách hiểu này thì cạnh tranh là hoạt động tranh đua giữa nhiều người sản xuất và kinh doanh trong nền kinh tế thị trường bị chi phối bởi quan hệ cung cầu nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất. Theo từ điển Encarta thì, cạnh tranh là hành động ganh đua nhằm chiến thắng hoặc thực hiện một việc tốt hơn những người khác [34]. Theo cách hiểu này thì cạnh tranh đơn giản là hoạt động ganh đua của các cá nhân nhằm giành lợi thế hơn những cá nhân khác. Trong Đại từ điển tiếng Việt, "cạnh tranh được hiểu là việc tranh đua giữa những cá nhân, tập thể có chức năng như nhau, nhằm giành phần hơn, phần thắng về mình”và "năng lực cạnh tranh là khả năng giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh của những hàng hóa cùng loại trên cùng một thị trường mục tiêu"[6]. Quan điểm này nói rõ hơn về cạnh tranh bình đẳng giữa những cá nhân hoặc tập thể có cùng điều kiện ganh đua nhằm giành phần lợi nhất về mình.
Cũng đề cập đến “cạnh tranh”một số nhà khoa học Việt Nam cho rằng, cạnh tranh là vấn đề giành lợi thế về giá cả hàng hoá - dịch vụ (mua và bán) và đó là phương thức để giành lợi nhuận cao cho các chủ thể kinh tế. Nói khác đi, mục đích trực tiếp của cạnh tranh trên thị trường của các chủ thể kinh tế là giành lợi thế để hạ thấp giá các yếu tố “đầu vào”của chu trình sản xuất kinh doanh sao cho mức chi phí thấp nhất. Như vậy, trên quy mô toàn xã hội, cạnh tranh là phương thức phân bổ các nguồn lực một cách tối ưu và do đó nó trở thành động lực bên trong thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Mặt khác, đi cùng với tối đa hoá lợi nhuận của các chủ thể kinh doanh, cạnh tranh cũng là yếu tố thúc đẩy quá trình tĩch luỹ và tập trung tư bản không đồng đều ở các doanh nghiệp. Như vậy, cạnh tranh cũng là môi trường phát triển mạnh mẽ cho các chủ thể kinh doanh thích nghi được với các điều kiện thị trường, đào thải các doanh nghiệp ít khả năng thích ứng với thị trường, dẫn đến quá trình tập trung hoá kinh tế trong từng ngành, vùng, quốc gia...
Các khái niệm cạnh tranh kể trên đều đề cập đến nội dung chủ yếu của cạnh tranh ở các góc độ khác nhau song vẫn chưa thực sự đầy đủ, bởi vì có nhiều hình thức cạnh tranh không chỉ bằng giá. Ngoài ra, ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau thì quan niệm và nhận thức về cạnh tranh là khác nhau và phạm vi cũng như cấp độ cũng khác nhau. Xét theo hướng tiếp cận của nội dung đề tài, chúng tôi trình bày khái niệm cạnh tranh như sau: Cạnh tranh là một quá trình tranh đấu mà trong đó, các chủ thể kinh tế chủ động ganh đua nhau, tìm mọi biện pháp (kể cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn kinh doanh) để đạt được mục tiêu kinh tế chủ yếu của mình như: hướng đến vị thế thống lĩnh thị trường, tạo dựng lòng trung thành của khách hàng, cũng như đảm bảo tiêu thụ có lợi nhất, tối đa hóa lợi nhuận. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích: đối với người kinh doanh là lợi nhuận, còn đối với người tiêu thụ là tối đa hóa độ thỏa dụng, đối với các quốc
gia là người dân được hưởng cuộc sống hạnh phúc, ấm no, an toàn, lâu dài và khỏe mạnh so với người dân của quốc gia khác.
1.1.1.2. Năng lực cạnh tranh
Theo diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp (HLFIC) của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), năng lực cạnh tranh là "khả năng của các doanh nghiệp, các ngành, các quốc gia hoặc khu vực tạo ra thu nhập tương đối cao hơn và mức độ sử dụng lao động cao hơn, trong khi vẫn đối mặt với cạnh tranh quốc tế"{20}. Khái niệm này đã phản ánh đầy đủ nội hàm của năng lực cạnh tranh ở cả cấp độ doanh nghiệp, ngành và cấp độ quốc gia. Trong phạm trù quản trị chiến lược, năng lực cạnh tranh hay lợi thế cạnh tranh của một ngành được hiểu là khả năng của một ngành đạt được tỉ suất lợi nhuận cao hơn tỉ suất lợi nhuận bình quân của ngành. Khái niệm này chỉ rõ bản chất của lợi thế cạnh tranh là hướng tới mục tiêu lợi nhuận nhưng lại không giúp nhiều cho việc phân tích các yếu tố tạo nên năng lực cạnh tranh được hiểu là khả năng của một ngành đạt được tỉ suất lợi nhuận cao hơn tỉ suất lợi nhuận bình quân của ngành.
Có thể thấy, năng lực cạnh tranh là một trong những khái niệm khó có sự thống nhất vì nó được áp dụng với cả hai cấp độ: cấp vi mô bao gồm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và các ngành kinh doanh và cấp vĩ mô bao gồm năng lực cạnh tranh của quốc gia và thậm chí là của một khu vực hoặc đôi lúc chúng ta lại thấy nó được sử dụng theo nghĩa hẹp như quan hệ giữa tỉ giá với xuất nhập khẩu. Đối với một doanh nghiệp hoặc một ngành kinh doanh, năng lực cạnh tranh gắn với mục tiêu duy trì sự tồn tại và thu được lợi nhuận trên thị trường nội địa hoặc thị trường quốc tế trong khi đối với một quốc gia, năng lực cạnh tranh lại gắn với mục tiêu cải thiện mức sống và phúc lợi cho người dân. Hai cấp độ này không tách rời mà thực tế chúng bổ sung cho nhau.
Năng lực cạnh tranh thường được sử dụng đồng nghĩa với sức cạnh tranh. Sức cạnh tranh là khả năng giành được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng giành lại một phần hay toàn bộ thị phần của đồng nghiệp . Một ngành được coi là có sức cạnh tranh và được đánh giá là có thể đứng vững cùng các nhà sản xuất khác, khi các sản phẩm thay thế hoặc các sản phẩm tương tự được đưa ra với mức giá thấp hơn các sản phẩm cùng loại; hoặc cung cấp các sản phẩm tương tự với các đặc tính về chất lượng và dịch vụ ngang bằng hay cao hơn. Nhìn chung, khi xác định sức cạnh tranh của một doanh nghiệp hay một ngành cần xem xét đến tiềm năng sản xuất kinh doanh một hàng hoá hay một dịch vụ ở mức giá ngang bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến mà không phải trợ cấp. Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đã đưa ra một khái niệm vừa phản ánh được cho cả doanh nghiệp, ngành và quốc gia là “Sức cạnh tranh là khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia, khu vực trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”[20].
Như vậy, có thể thấy các thuật ngữ năng lực cạnh tranh, sức cạnh tranh, khả năng cạnh tranh và tính cạnh tranh đều có cùng nội hàm và có thể thay thế lẫn nhau.
Từ khái niệm năng lực cạnh tranh có thể đưa ra khái niệm về năng lực cạnh tranh của ngành cà phê như sau: năng lực cạnh tranh của cà phê là khả năng cung ứng các sản phẩm hoặc dịch vụ với giá trị gia tăng cao hơn, hoặc khác biệt hóa so với đối thủ cạnh tranh chính trên thị trường mục tiêu trên cơ sở tạo dựng và khai thác một cách hiệu quả các nguồn lực của ngành và thực hiện các tiên đoán tương lai về cơ hội thị trường. Để đạt được giá trị gia tăng cao hơn, một ngành, một doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm có giá thành thấp hơn giá thành của các đối thủ cạnh tranh, hoặc có sự khác biệt sản phẩm trên một phương diện nào đó để có thể định giá bán của mình cao hơn so với giá của đối thủ cạnh tranh, hoặc là phải có được cả hai yếu tố này. Trong trường
hợp thứ nhất, chúng ta nói doanh nghiệp đó có lợi thế cạnh tranh bằng chi phí thấp và có thể thực hiện các chiến lược hạ chi phí; còn trong trường hợp thứ hai, doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh bằng sự khác biệt (về chất lượng, dịch vụ, giao hàng,...) để có thể sử dụng các chiến lược khác biệt hóa.
Như vậy, việc nâng cao năng lực cạnh tranh là kết quả của sự nỗ lực có chủ định của doanh nghiệp hoặc ngành kinh doanh nhằm tạo dựng và khai thác một cách hiệu quả và hiệu suất các nguồn lực mà doanh nghiệp sở hữu hoặc có khả năng tiếp cận. Doanh nghiệp kinh doanh có thể tạo dựng được năng lực cạnh tranh trên cơ sở tiếp cận và khai thác tốt các yếu tố môi trường kinh doanh thuận lợi của quốc gia khi phải đối mặt với cạnh tranh quốc tế. Cần lưu ý rằng, năng lực cạnh tranh cũng bao hàm cả các yếu tố tạo dựng nên nó như sự khác biệt hóa với đối thủ trên thị trường mục tiêu. Năng lực cạnh tranh không chỉ đánh giá dựa trên những nguồn lực hiện tại mà nó đánh giá dựa trên việc tiên đoán đúng về các cơ hội thị trường trong tương lai.
1.1.1.3. Các cấp độ cạnh tranh
Tùy theo các tiêu chí khác nhau người ta phân chia năng lực cạnh tranh ra thành các cấp độ khác nhau. Dưới đây là các cách phân loại cạnh tranh phổ biến. (*). Cạnh tranh cấp độ quốc gia
Theo Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) năm 1997, “Năng lực cạnh tranh của một quốc gia là năng lực của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế bền vững tương đối và các đặc trưng kinh tế khác”. Như vậy, năng lực cạnh tranh cấp quốc gia có thể được hiểu là việc xây dựng một môi trường cạnh tranh kinh tế chung, đảm bảo phân bổ có hiệu quả các nguồn lực, để đạt và duy trì mức tăng trưởng cao, bền vững. Môi trường cạnh tranh kinh tế chung có ý nghĩa rất lớn đối với việc thúc đẩy quá trình đầu tư, tự điều chỉnh, lựa chọn của các nhà kinh doanh, các doanh nghiệp theo các tín hiệu thị trường được thông tin đầy đủ. Mặt khác,
môi trường cạnh tranh thuận lợi sẽ tạo khả năng cho chính phủ hoạch định chính sách phát triển, cải thiện đầu tư, tăng cường hợp tác quốc tế và hội nhập ngày càng có hiệu quả, đồng thời có ảnh hưởng quyết định đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Cạnh tranh cấp độ quốc gia thể hiện ở các khía cạnh về độ mở cửa nền kinh tế, vai trò của chính phủ, các yếu tố về tài chính, công nghệ, cơ sở hạ tầng, lao động, thể chế pháp luật và năng lực quản trị.
Từ năm 2000, WEF điều chỉnh lại các nhóm tiêu chí, gộp thành ba nhóm lớn để đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia là: Sáng tạo kinh tế, khoa học công nghệ, tài chính, quốc tế hoá. Trong đó, trọng số của sáng tạo kinh tế, khoa học công nghệ đã tăng mạnh từ 1/9 lên 1/3. Năm 2004 hệ thống tiêu chí được điều chỉnh và duy trì đến năm 2005 và phân thành nhóm chỉ tiêu cạnh tranh doanh nghiệp và nhóm chỉ tiêu cạnh tranh tăng trưởng.
(*). Cạnh tranh ngành.
Là khả năng bù đắp chi phí, duy trì lợi nhuận và được đo bằng thị phần của sản phẩm, dịch vụ do ngành đó cung cấp cho thị trường. Cạnh tranh ngành thể hiện ở việc thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất đầu vào nhằm giảm thiểu chi phí và đạt lợi ích kinh tế cao, bền vững.
(*). Cạnh tranh sản phẩm
Năng lực cạnh tranh sản phẩm là khả năng đáp ứng, thoả mãn yêu cầu của người tiêu dùng, của nhà sản xuát về chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng, tốt hơn các sản phẩm khác cùng loại. Bất kỳ một sản phẩm nào đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng và được người tiêu dùng chấp nhận rộng rãi thì được coi là sản phẩm có năng lực cạnh tranh cao.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá được hình thành bởi năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là hai phạm trù khác nhau nhưng
có quan hệ hữu cơ với nhau. Năng lực cạnh tranh của hàng hoá có được do năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo ra; nhưng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ do năng lực cạnh tranh của hàng hoá mà có, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa như đã đề cập (nguồn lực và năng lực bản thân doanh nghiệp). Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá có ảnh hưởng lớn và thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong phân tích có thể thông qua năng lực cạnh tranh của sản phẩm để đo lường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bởi đây là các yếu tố dễ định lượng và nhận biết được. Tuy nhiên để phân tích sâu hơn năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, xét về mặt dài hạn và các nhân tố bền vững thì phải phân tích các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh.
1.1.2.1. Các yếu tố đầu vào.
Yếu tố quyết định đến năng lực cạnh tranh của các ngành cụ thể là các nhân tố liên quan đến sản xuất cần thiết cho cạnh tranh trong một ngành nhất định. Các nhân tố này có thể chia thành: nhân tố vốn, nguồn nhân lực, nguồn nguyên liệu.
- Yếu tố vốn: Là lượng tiền cần có của bất kỳ một doanh nghiệp hay một ngành nào để tạo dựng những yếu tố cơ bản ban đầu và duy trì hoạt động, phát triển mở rộng cho các ngành, các doanh nghiệp ấy. Tuỳ vào từng loại hình doanh nghiệp mà nguồn vốn lớn hay nhỏ. Vốn nhiều hay ít quyết định chất lượng trang thiết bị, nguyên liệu đầu vào, do đó quyết định chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Yếu tố vốn được đánh giá là một trong những nhân tố quan trọng nhất có tác động trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, mọi doanh nghiệp đều không thể phát triển mạnh nếu không huy động được lượng vốn đủ cho mục tiêu của mình.