(iv) Đối với việc thu giữ TSBĐ vẫn đang gặp khó khăn do khách hàng không hợp tác trong việc bàn giao tài sản; các cơ quan chức năng (UBND, cơ quan công an,
…) chưa phối hợp, tham gia hỗ trợ một cách tích cực để giải quyết khó khăn cho ngân hàng; khó khăn về mặt truyền thông trong quá trình thu giữ tài sản theo tinh thần Nghị quyết 42.
Hoạt động của VAMC
Để đẩy nhanh tiến trình xử lý nợ xấu, đặc biệt để xử lýnhanh nợ vàtaì sản bảo đảm của khoản nợ đã mua của VAMC, một trong những giải pháp quan trọng là cần nâng cao tiềm lực tài chính cho VAMC. Theo lộ trình, giai đoạn 20172018, vốn điều lệ của VAMC sẽ được tăng lên mức 5.000 tỷ đồng và dự tính đạt mức mức
10.000 tỷ đồng trong giai đoạn 20192020, tuy nhiên, cho đến cuối năm 2018,
VAMC vẫn chưa được cấp vốn đầy đủ như lộ trình đề ra, trong khi
cać
cơ chê,́
chiń h saćh, quy định phaṕ
lýmang tiń h đặc thù, gây ảnh hưởng lơń
Có thể bạn quan tâm!
- Nhóm Các Nhân Tố Sau Khi Thực Hiện Phân Tích Nhân Tố Khám Phá
- Nâng cao chất lượng tín dụng tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam 1669220937 - 18
- Nâng cao chất lượng tín dụng tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam 1669220937 - 19
- Định Hướng Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Của Các Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Việt Nam Đến Năm 2030
- Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Của Các Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Việt Nam
- Hoàn Thiện Chiến Lược Và Chính Sách Tín Dụng
Xem toàn bộ 254 trang tài liệu này.
đến muc tiêu,
hạn chế hiệu quả hoạt động của VAMC với vai trò là công cụ đặc biệt cua Nhànươć nhằm góp phần xử lý nhanh nợ xấu. Quy mô vốn thực tế hiện nay của VAMC là
2.000 tỷ đồng, trong khi doanh số mua nợ theo giá trị thị trường của VAMC đến 31/12/2018, đạt 3.141,07 tỷ đồng, do đó, rất khó để đẩy mạnh hoạt động mua bán nợ theo giá thị trường [5]
Những khó khăn về pháp lý trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm, xử lý nợ
xấu
Các quy định pháp luật hiện hành vẫn còn những vướng mắc cho VAMC và
các ngân hàng trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm và xử lý nợ xấu như sau:
(i) Công tác hướng dẫn tố tụng, thi hành án còn chưa có được hướng dẫn cụ thể của Tòa án nhân dân tối cao về việc áp dụng các thủ tục tố tụng rút gọn trong giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm tại Tòa án;
(ii) Theo Nghị quyết 42, để thực hiện quyền thu giữ TSBĐ, trong hợp đồng bảo đảm giữa TCTD và bên bảo đảm phải có nội dung thỏa thuận về việc được quyền thu giữ TSBĐ. Do vậy, nếu hợp đồng bảo đảm không có thỏa thuận cụ thể về quyền thu giữ hoặc có thỏa thuận nhưng nội dung không rõ ràng có thể gây bất
lợi cho ngân hàng trong việc phối hợp với các cơ
quan chức năng để
thực hiện
quyền lợi của mình. Với cơ chế tiếp cận thông tin về tình trạng TSBĐ, hiện nay,
tòa án, cơ
quan thi hành án dân sự
không có hệ
thống dữ
liệu cho phép các
NHTMCP trích xuất, tra cứu thông tin về tình trạng (có tranh chấp, hay đang áp
dụng biện pháp khẩn cấp…) tài sản nên gây khó khăn khi áp dụng các biện pháp xử lý tài sản theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị quyết 42 về điều kiện để thu giữ TSBĐ
(iii) Về mua bán khoản nợ xấu và phát triển thị trường mua bán nợ: trên thực tế, các TCTD chưa được hướng dẫn cách xác định giá bán thế nào là phù hợp với thị trường; phương pháp chuyển nợ thành vốn góp còn hạn chế và chưa phát huy được hiệu quả thực tế do giới hạn góp vốn mua cổ phần theo Điều 129 Luật Các TCTD, không được vượt quá 11% vốn điều lệ của doanh nghiệp nhận vốn góp;
Việc mua bán nợ
xấu chưa thật sự sôi động do chưa có thị
trường mua bán nợ
chuyên nghiệp, bên cạnh đó, nhà đầu tư có nhu cầu mua bán khoản nợ còn e ngại hành lang pháp lý chưa đầy đủ, rõ ràng, quá trình xử lý nợ trên thực tế gặp nhiều khó khăn về thời gian và chi phí. Ngoài ra, đối với nợ xấu trong lĩnh vực cho vay bất động sản, hiện còn gặp khó khăn do việc xử lý TSBĐ tại TCTD hiện nay đang gặp một số khó khăn như khách hàng vay có nợ xấu tại TCTD, thế chấp tài sản bảo đảm là tài sản hình thành trong tương lai… nên TCTD không thể áp dụng biện pháp thu giữ tài sản bảo đảm [5]
Thứ ba: Chiến lược và chính sách tín dụng còn chưa chặt chẽ
Đây là một trong những nguyên nhân làm giảm CLTD của ngân hàng TMCP. Hầu hết chi nhánh các ngân hàng TMCP Việt Nam đều thực hiện đầy đủ 3 chức năng: quan hệ khách hàng, thẩm định tín dụng, hỗ trợ quan hệ khách hàng và chịu trách nhiệm đối với mọi khâu chuẩn bị cho một khoản vay do đó nhiều công việc tập trung hết một nơi, thiếu sự chuyên sâu dẫn đến chất lượng công tác chưa cao.
Việc phải chịu áp lực về
doanh thu, dư nợ
nên bộ
phận quan hệ
khách hàng là
người đi tìm kiếm, tiếp xúc khách hàng vừa phân tích khách hàng để trình duyệt thường kém tính khách quan và tiềm ẩn rủi ro lớn cho ngân hàng. Bộ phận quan hệ khách hàng thường phải chịu áp lực về phát triển, mở rộng khách hàng nên họ có thể phân tích khách hàng theo hướng tốt hơn so với thực tế để được phê duyệt cho vay, đảm bảo chỉ tiêu về dư nợ.
Do hạn chế về tính minh bạch của thông tin khách hàng và năng lực thẩm định yếu của cán bộ quan hệ khách hàng nên để đảm bảo an toàn cho ngân hàng, quy trình cấp tín dụng nhìn chung còn cồng kềnh, phức tạp, quy trình cho vay doanh
nghiệp vừa và nhỏ
cũng như
cá nhân hầu như
vẫn giống hệt quy trình cho vay
khách hàng doanh nghiệp lớn. Hạn chế nói trên gây lãng phí về nhân lực, tài lực của ngân hàng khi xử lý các khoản tín dụng. Quyết định cấp tín dụng cho một khoản vay/ khách hàng chủ yếu dựa trên các đặc điểm của riêng khoản vay/ khách hàng đó mà chưa xem xét, đánh giá tác động của khoản vay/ khách hàng đó tới tổng thể rủi ro của danh mục đầu tư theo ngành, lĩnh vực kinh tế, khu vực địa lý và các sản phẩm cụ thể.
Chất lượng tín dụng có lúc, có nơi chưa được coi trọng đúng mức, việc tuân thủ quy trình tín dụng chưa nghiêm (thẩm định sơ sài, hồ sơ tài sản thế chấp chưa đầy đủ yếu tố pháp lý), một số cán bộ thẩm định tín dụng khi quyết định cho vay còn dựa trên yếu tố chủ quan về tài sản bảo đảm tiền vay, chưa coi trọng đến hiệu quả của phương án, dự án vay vốn. Việc kiểm tra sử dụng vốn vốn vay của cán bộ hỗ trợ quan hệ khách hàng còn mang tính hình thức, chiếu lệ, chưa thường xuyên, việc kiểm tra sau khi cho vay chưa được coi trọng như là một tất yếu của quy trình cho vay, từ đó dẫn đến một số khách hàng còn sử dụng vốn sai mục đích dẫn đến khó khăn trong việc trả nợ NH
Công tác xử lý nợ xấu còn một số vấn đề tồn tại, biện pháp tích cực thu hồi nợ ngay từ khi phát sinh nợ xấu chưa được coi trọng, chưa có phương pháp và cách thức theo dạng "cẩm nang" hướng dẫn toàn chi nhánh trong việc thu hồi nợ xấu dẫn đến hiệu quả chưa cao, chưa được thực sự chủ động trong việc xử lý nợ tồn đọng, vẫn ỷ lại vào việc dùng dự phòng rủi ro để xử lý sau đó chuyển hạch toán
theo dõi ngoại bảng tổng kết tài sản. Khâu
thẩm
định
khách hàng thường
được
xem là quan trọng
nhất,
tuy nhiên để có thể thẩm định có hiệu quả, chất lượng
thì việc thu thập thông tin phải
có chất
lượng.
Song khi thực
hiện
thẩm
định hồ
sơ khách hàng, các ngân hàng nhiều khi không thấy được rằng đây chính là điều
kiện
đánh giá khả năng của
khách hàng trong hiện tại và tương lai, mối quan hệ
giữa
các nội
dung thẩm
định
thực chất là tuân thủ nguyên tắc tín dụng,
yêu cầu
pháp luật về quan hệ kinh tế đôi khi thẩm định trên ý trí chủ quan, cảm tính trước
khi tiến hành thẩm định. Công
tác kiểm
tra, giám sát khách hàng chỉ dừng
lại ở
việc
kiểm
tra tính mục đích của việc sử dụng tiền vay chưa quan tâm đến hiệu
quả sử dụng tiền vay.
Thứ tư:
Hệ thống
kiểm
soát và kiểm
toán nội
bộ tại
NHTMCP Việt
Nam chưa hỗ trợ hiệu quả tối đa cho công tác nâng cao chất lượng tín dụng.
Điều
40 và điều
41 của
Luật
Các TCTD năm 2010 đã quy định
rất
rõ về
nhiệm vụ của hệ thống kiểm soát nội bộ và của kiểm toán nội bộ trong mỗi ngân hàng. Tuy nhiên trong thực tế, việc phân định rõ chức năng nhiệm vụ của hai hệ
thống
này vẫn
còn bị hạn
chế tại
nhiều
ngân hàng. Có những
ngân hàng TMCP
chưa
đưa
ra được
quy trình kiểm
toán nội
bộ thống
nhất
áp dụng
cho toàn hệ
thống; Bộ phận kiểm toán nội bộ không trực thuộc và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Ban kiểm soát, mà vẫn dưới sự chỉ đạo của Ban điều hành. Cụ thể lương thưởng,
phụ cấp
trách nhiệm
của
bộ phận kiểm toán nội bộ do Ban điều hành chi trả, vì
vậy tính độc lập của kiểm toán nội bộ rất yếu, không thể thực hiện vai trò đánh
giá độc lập
khách quan đối với hệ thống
kiểm
soát nội
bộ theo quy định
trong
Luật
Các TCTD. Như vậy,
bộ phận
kiểm
toán nội
bộ đã không làm tốt
vai trò
của tuyến phòng thủ thứ ba theo quan điểm quản trị rủi ro hiện đại. Đây cũng là
một
trong những
tiêu chí phản
ánh sự yếu kém của công tác quản
trị rủi
ro tín
dụng tại NHTMCP Việt Nam trong thời gian qua.
Hoạt động TD là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro, vì vậy nhằm kịp thời phát
hiện các RRTD có thể phát sinh NH đã thiết lập hệ thống báo cáo qua rất nhiều
cấp bậc. Tuy hệ thống báo cáo này được thiết lập rõ ràng, nhưng vẫn xảy ra thực trạng cùng một nội dung về hoạt động TD nhưng CBTD phải báo cáo qua nhiều phòng ban. Công việc báo cáo nhiều đến mức với các chi nhánh nhỏ, Giám đốc chi nhánh phải phân công một cán bộ chuyên phụ trách thực hiện báo cáo theo yêu cầu
của Hội sở. báo cáo.
Với các chi nhánh lớn, phải thành lập một phòng ban chịu trách nhiệm
Với các NH áp dụng mô hình quản trị RRTD tập trung sẽ phân chia CBTD với ba chức năng cụ thể là: kinh doanh, QLRR và tác nghiệp. Nghĩa là cùng một hồ sơ TD của một KH nhưng sẽ phân chia nhiều CBTD cùng thực hiện theo ba chức
năng trên. Tại một số NH, khi sai phạm được phát hiện thì một số CBTD đã có
sự đùn đẩy
trách nhiệm
lẫn
nhau vì những
quy định
về trách nhiệm
của
mỗi
CBTD theo từng chức năng khác nhau còn chung chung, chưa thể, rõ ràng.
Thứ năm: Cán bộ tín dụng còn nhiều hạn chế
được phân định cụ
Cán bộ tín dụng tiếp xúc trực tiếp khách hàng nên đôi khi có thể nảy sinh sự thông đồng giữa cán bộ quan hệ khách hàng và khách hàng dẫn đến khai thác nhu
cầu vốn để
vay hộ, vay ké hoặc khách hàng mua chuộc cán bộ
tín dụng để
vay
được tiền ngân hàng. Cán bộ
quan hệ
khách hàng phải đảm bảo tất cả
các giai
đoạn từ hướng dẫn lập hồ sơ, tiếp nhận và kiểm tra hồ sơ, tiến hành thẩm định ban đầu nội dung liên quan đến khách hàng như pháp lý, uy tín, tài chính, tài sản đảm bảo.
Công tác thu thập thông tin cho quá trình thẩm định còn nhiều bất cập, việc thu thập thông tin mất nhiều thời gian. Nhiều hồ sơ vay cán bộ tín dụng chủ yếu dựa vào các báo cáo tài chính của khách hàng, các phương án đề ra, dẫn đến việc
ra quyết
định
có thể không được
chính xác. Chưa
khai thác đầy
đủ các nguồn
thông tin, nhất là các thông tin từ bên ngoài dẫn đến việc phân tích đánh giá khách
hàng (tình hình tài chính, sản
xuất
kinh doanh, đầu
ra của
sản
phẩm,
khả năng
cân đối vốn…) chưa thật sự sát với thực tế.
Đội ngũ cán bộ tín dụng còn thiếu kinh nghiệm cũng là một khó khăn trong vấn đề mở rộng tín dụng. Chất lượng cán bộ tín dụng còn nhiều bất cập, chưa đáp
ứng
yêu cầu
thực
tế,
chất
lượng
thẩm
định
chưa
đạt
yêu cầu,
không đối
chiếu
phân tích với
các nguồn
thông tin khác vào báo cáo thẩm
định
là khá phổ biến,
kiểm tra các mặt bảo chất lượng...
tài chính thiếu chính xác, kiểm tra sử dụng vốn vay ít không đảm
Thứ sáu: Hệ thống xếp hạng tín dụng thiếu đồng bộ, chủ yếu sử dụng phương pháp định tính
Hiện nay, hầu hết các ngân hàng TMCP Việt Nam mới chỉ có hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để đánh giá rủi ro của khách hàng, tuy nhiên hệ thống này vẫn còn một số hạn chế, cụ thể là: Thông tin tài chính trung bình ngành, nhóm ngành còn thiếu, chưa được thống kê đầy đủ và tin cậy nên việc phân tích xếp hạng tín
dụng các doanh nghiệp vay vốn cũng gặp phải những khó khăn nhất định. Chính bản thân ngân hàng khi thực hiện xếp hạng tín dụng nội bộ cũng phải tự tổng hợp số liệu từ các khách hàng của mình, cộng thêm kinh nghiệm của các chuyên gia để đưa ra số liệu chuẩn phục vụ cho việc đánh giá khách hàng. Các thông tin chuyên ngành mà các cán bộ trực tiếp đánh giá xếp hạng thu thập từ nhiều nguồn: Internet, doanh nghiệp, đối thủ cạnh tranh... ngân hàng chưa tạo dựng được một hệ thống thông tin có thể đáp ứng kịp thời, có hiệu quả cho việc phân tích, dự báo tình hình tiền tệ, lãi suất, tín dụng, tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp.
Chính xuất phát từ việc thiếu hệ thống đo lường trên mà chiến lược hoạt động, chính sách, thủ tục, quyết định tín dụng cũng như xác định lãi suất cho vay của ngân hàng hầu hết đều mang tính chung chung, định tính, chưa có căn cứ định lượng cụ thể nên chưa có tính khoa học, chính xác cao.
Thứ bảy: Rủi ro về hệ thống Công nghệ thông tin
Hệ thống CNTT có thể tiềm ẩn một số rủi ro nhất định đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng, đặc biệt với hoạt động tín dụng. Các rủi ro có thể đến từ
việc
ngân hàng phải
sử dụng
các phần
mềm,
dịch
vụ hỗ trợ công nghệ,
đường
truyền, hệ thống cung cấp từ nhiều đơn vị cung cấp khác nhau; Từ việc vận hành sai, không tuân thủ chặt chẽ quy trình theo dõi, kiểm soát, bảo mật an ninh, an toàn hệ thống hay từ các rủi ro do thiên tai, hỏa hoạn; Rủi ro từ việc tấn công mạng (hacker)...
2.3.3 Nguyên nhân
2.3.3.1 Nhóm nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, một số ngân hàng lớn khó tăng vốn vì bị chi phối bởi Nhà nước
Nguyên nhân các NHTMCP Nhà nước khó tăng vốn vì các ngân hàng đều có cổ phần chi phối thuộc về Nhà nước. Mà đã là ngân hàng có vốn nhà nước thì lại phải tuân thủ nhiều hơn các quy định quản lý so với các ngân hàng tư nhân. Điển hình trong số các quy định đó là liên quan đến việc phân bổ lợi nhuận. Nếu như ngân hàng tư nhân có thể dễ dàng được cổ đông đồng thuận chia cổ tức bằng cổ phiếu thì các ngân hàng có vốn nhà nước lại không được chia bằng cổ tức. 3 năm qua (từ năm 2016 – 2018), cả BIDV, Vietcombank và VietinBank đều phải chi nhiều
nghìn tỷ mỗi năm để trả cổ tức bằng tiền mặt cho Nhà nước cho dù vấn đề tăng vốn đã vô cùng cấp bách. Hơn nữa, giới hạn về sở hữu Nhà nước tại các ngân hàng (tối thiểu là 65%), chẳng hạn như VietinBank, cũng gây khó khăn trong việc gọi vốn. Ngoài ra, quy định không được bán vốn dưới giá trị thị trường cũng gây khó khăn cho các nhà quản lý của những ngân hàng đang chiếm thị phần lớn nhất trong hệ thống tài chính ngân hàng Việt, ví dụ như Vietcombank.
Những rào cản trên đã khiến các ngân hàng khó khăn trong việc gia tăng nguồn vốn cấp 1 để đáp ứng quy định về hệ số an toàn vốn (CAR) vốn đang ở mức thấp nhất trong hệ thống (chỉ 9,39%), tính theo quy định tại Thông tư 36 (tối thiểu 9%). Khi thời hạn áp dụng Basel 2 cận kề, nếu việc tăng vốn vẫn không thực hiện được thì CAR còn xuống sâu hơn nữa bởi theo tính toán của các nhà quản trị thì chênh lệch CAR giữa cách tính của Thông tư 36 và Basell II vào khoảng 1,5%. Đây trở thành một rủi ro hiện hữu nếu các ngân hàng không thể nâng đủ vốn vào thời điểm năm 2020 thì Chính phủ có thể phải bơm vốn, và theo tính toán của IMF, việc gia tăng vốn này có thể làm giảm 11,5% GDP.
Thứ hai, một số nhà quản trị ngân hàng cấp cao nhận thức chưa đầy chạy theo lợi ích trước mắt làm ảnh hưởng đến CLTD
đủ,
Trong thời gian qua, trong lĩnh vực cho vay đầu tư tài chính, góp vốn vào các doanh nghiệp, nhiều ngân hàng TMCPVN cũng có các sai sót về phạm vi, mục
đích, giới hạn cho vay theo qui định của Ngân hàng Nhà nước hoặc ủy thác cho
nhiều công ty con thực hiện các nghiệp vụ chưa được cấp phép theo qui định của
pháp luật. Một số nhà quản trị ngân hàng có những vi phạm cụ thể như cho vay
vượt giới hạn quy định, cố ý lách luật, tập trung tín dụng quá mức cho một số ít khách hàng cho người thân và các thành viên của Hội đồng quản trị. Cũng có hiện tượng Ban kiểm soát, Ban điều hành và các cổ đông lớn của ngân hàng chi phối
hoạt động tín dụng theo hướng sử dụng
vốn của
ngân hàng vào mục đích riêng.
Điều 126, điều 127 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 đã qui định những
trường
hợp
không được
cho vay và hạn
chế cho vay, tuy nhiên, thực tế các qui
định này hoàn toàn không có tác dụng do các NHTM chấp thuận ty được Hội đồng sáng lập lập ra để hợp thức hoạt động này.
cho vay các công
Bên cạnh
đó hiện
tượng
sở hữu
chéo, đầu
tư ngoài ngành của
các ngân
hàng và doanh nghiệp nhà nước diễn ra phổ biến đã dẫn tới các khoản cho vay,
đầu
tư lòng vòng, bất
chấp
quy định,
gây hậu
quả nghiêm trọng.
Đối
với hệ
thống ngân hàng cổ phần Việt Nam, sở hữu chéo dẫn tới rủi ro nhóm ngân hàng
liên quan và rủi
ro liên thông giữa
các thị trường bất động sản, chứng khoán do
các ngân hàng Việt khoán
Nam đều
liên quan tới
kinh doanh bất
động
sản,
chứng
Thứ ba, do năng lực
quản
trị của
ngân hàng thương
mại cổ
phần Việt
Nam còn yếu
kém cộng
thêm áp lực cạnh tranh để phát triển thị phần tín dụng
dẫn đến nguy cơ giảm nhẹ các chuẩn mực trong quy trình tín dụng
Giai đoạn 2007 đến 2013 là những năm tăng trưởng tín dụng nóng dẫn đến
lạm
phát bùng nổ lên tới
hơn
18%. Giai đoạn
2014 2018 NHNN thực
hiện
chính sách tiền
tệ thắt
chặt
thông qua kênh lãi suất
(trần
lãi suất
huy động) và
thông qua kênh tín dụng
(hạn
mức
tăng trưởng
tín dụng
và hạn
mức
tín dụng
thắt chặt cho một số ngành không khuyến khích) đã chặn đà tốc độ tăng trưởng tín dụng. Tuy nhiên, năm 2014 2018 lại là giai đọan bắt đầu bùng nổ nợ quá hạn,
khi các NHTMCP cạnh
tranh tăng trưởng
thị phần
tín dụng
nhanh quá mức
kiểm soát, nhiều khoản vay được phê duyệt dựa theo nhu cầu khách hàng hơn là dựa trên các nguyên tắc cấp tín dụng, giao khoán lương thưởng theo chỉ tiêu dư
nợ cho cán bộ tín dụng.
Đồng thời,
sự tuân thủ quy trình cấp
tín dụng
tại
một
số NHTMCP có những
thời
điểm
chưa
thực
sự tuân thủ nghiêm túc, một số
khoản
vay có giá trị lớn
được
phê duyệt,
ngoài ngành theo chỉ đạo của cấp lãnh
đạo hoặc của cổ đông.
Nhiều ngân hàng TMCPVN nhỏ,
yếu năng lực cạnh tranh buộc phải xem
việc định giá tài sản
thế chấp
cao, đơn
giản
hóa thủ tục
và rút ngắn
thời
gian
thẩm
định,
cho vay là phương thức
cạnh
tranh. Việc phá lệ của các ngân hàng
nhỏ có tác động đến các ngân hàng lớn do hiệu ứng từ các đánh giá, so sánh của
khách hàng lớn, khách hàng truyền
thống của ngân hàng lớn.
Từ nhiệm vụ đánh
bật các ngân hàng nhỏ ra khỏi thị phần của mình làm cho việc thẩm định trở nên sơ sài, chiếu lệ, định giá tài sản theo giá thị trường, hậu quả là, khách hàng được
cấp tín dụng theo yêu cầu hơn là theo nhu cầu nên chỉ cần khách hàng gặp một