Nâng cao chất lượng tín dụng tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam 1669220937 - 20

(iv) Đối với việc thu giữ TSBĐ vẫn đang gặp khó khăn do khách hàng không hợp tác trong việc bàn giao tài sản; các cơ quan chức năng (UBND, cơ quan công an,

…) chưa phối hợp, tham gia hỗ trợ một cách tích cực để giải quyết khó khăn cho ngân hàng; khó khăn về mặt truyền thông trong quá trình thu giữ tài sản theo tinh thần Nghị quyết 42.

­ Hoạt động của VAMC

Để đẩy nhanh tiến trình xử lý nợ xấu, đặc biệt để xử lýnhanh nợ vàtaì sản bảo đảm của khoản nợ đã mua của VAMC, một trong những giải pháp quan trọng là cần nâng cao tiềm lực tài chính cho VAMC. Theo lộ trình, giai đoạn 2017­2018, vốn điều lệ của VAMC sẽ được tăng lên mức 5.000 tỷ đồng và dự tính đạt mức mức

10.000 tỷ đồng trong giai đoạn 2019­2020, tuy nhiên, cho đến cuối năm 2018,

VAMC vẫn chưa được cấp vốn đầy đủ như lộ trình đề ra, trong khi

cać

cơ chê,́

chiń h saćh, quy định phaṕ

lýmang tiń h đặc thù, gây ảnh hưởng lơń

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 254 trang tài liệu này.

đến muc tiêu,

hạn chế hiệu quả hoạt động của VAMC với vai trò là công cụ đặc biệt cua Nhànươć nhằm góp phần xử lý nhanh nợ xấu. Quy mô vốn thực tế hiện nay của VAMC là

Nâng cao chất lượng tín dụng tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam 1669220937 - 20

2.000 tỷ đồng, trong khi doanh số mua nợ theo giá trị thị trường của VAMC đến 31/12/2018, đạt 3.141,07 tỷ đồng, do đó, rất khó để đẩy mạnh hoạt động mua bán nợ theo giá thị trường [5]

­ Những khó khăn về pháp lý trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm, xử lý nợ

xấu

Các quy định pháp luật hiện hành vẫn còn những vướng mắc cho VAMC và

các ngân hàng trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm và xử lý nợ xấu như sau:

(i) Công tác hướng dẫn tố tụng, thi hành án còn chưa có được hướng dẫn cụ thể của Tòa án nhân dân tối cao về việc áp dụng các thủ tục tố tụng rút gọn trong giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm tại Tòa án;

(ii) Theo Nghị quyết 42, để thực hiện quyền thu giữ TSBĐ, trong hợp đồng bảo đảm giữa TCTD và bên bảo đảm phải có nội dung thỏa thuận về việc được quyền thu giữ TSBĐ. Do vậy, nếu hợp đồng bảo đảm không có thỏa thuận cụ thể về quyền thu giữ hoặc có thỏa thuận nhưng nội dung không rõ ràng có thể gây bất

lợi cho ngân hàng trong việc phối hợp với các cơ

quan chức năng để

thực hiện

quyền lợi của mình. Với cơ chế tiếp cận thông tin về tình trạng TSBĐ, hiện nay,

tòa án, cơ

quan thi hành án dân sự

không có hệ

thống dữ

liệu cho phép các

NHTMCP trích xuất, tra cứu thông tin về tình trạng (có tranh chấp, hay đang áp

dụng biện pháp khẩn cấp…) tài sản nên gây khó khăn khi áp dụng các biện pháp xử lý tài sản theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị quyết 42 về điều kiện để thu giữ TSBĐ

(iii) Về mua bán khoản nợ xấu và phát triển thị trường mua bán nợ: trên thực tế, các TCTD chưa được hướng dẫn cách xác định giá bán thế nào là phù hợp với thị trường; phương pháp chuyển nợ thành vốn góp còn hạn chế và chưa phát huy được hiệu quả thực tế do giới hạn góp vốn mua cổ phần theo Điều 129 Luật Các TCTD, không được vượt quá 11% vốn điều lệ của doanh nghiệp nhận vốn góp;

Việc mua bán nợ

xấu chưa thật sự sôi động do chưa có thị

trường mua bán nợ

chuyên nghiệp, bên cạnh đó, nhà đầu tư có nhu cầu mua bán khoản nợ còn e ngại hành lang pháp lý chưa đầy đủ, rõ ràng, quá trình xử lý nợ trên thực tế gặp nhiều khó khăn về thời gian và chi phí. Ngoài ra, đối với nợ xấu trong lĩnh vực cho vay bất động sản, hiện còn gặp khó khăn do việc xử lý TSBĐ tại TCTD hiện nay đang gặp một số khó khăn như khách hàng vay có nợ xấu tại TCTD, thế chấp tài sản bảo đảm là tài sản hình thành trong tương lai… nên TCTD không thể áp dụng biện pháp thu giữ tài sản bảo đảm [5]

 Thứ ba: Chiến lược và chính sách tín dụng còn chưa chặt chẽ

Đây là một trong những nguyên nhân làm giảm CLTD của ngân hàng TMCP. Hầu hết chi nhánh các ngân hàng TMCP Việt Nam đều thực hiện đầy đủ 3 chức năng: quan hệ khách hàng, thẩm định tín dụng, hỗ trợ quan hệ khách hàng và chịu trách nhiệm đối với mọi khâu chuẩn bị cho một khoản vay do đó nhiều công việc tập trung hết một nơi, thiếu sự chuyên sâu dẫn đến chất lượng công tác chưa cao.

Việc phải chịu áp lực về

doanh thu, dư nợ

nên bộ

phận quan hệ

khách hàng là

người đi tìm kiếm, tiếp xúc khách hàng vừa phân tích khách hàng để trình duyệt thường kém tính khách quan và tiềm ẩn rủi ro lớn cho ngân hàng. Bộ phận quan hệ khách hàng thường phải chịu áp lực về phát triển, mở rộng khách hàng nên họ có thể phân tích khách hàng theo hướng tốt hơn so với thực tế để được phê duyệt cho vay, đảm bảo chỉ tiêu về dư nợ.

Do hạn chế về tính minh bạch của thông tin khách hàng và năng lực thẩm định yếu của cán bộ quan hệ khách hàng nên để đảm bảo an toàn cho ngân hàng, quy trình cấp tín dụng nhìn chung còn cồng kềnh, phức tạp, quy trình cho vay doanh

nghiệp vừa và nhỏ

cũng như

cá nhân hầu như

vẫn giống hệt quy trình cho vay

khách hàng doanh nghiệp lớn. Hạn chế nói trên gây lãng phí về nhân lực, tài lực của ngân hàng khi xử lý các khoản tín dụng. Quyết định cấp tín dụng cho một khoản vay/ khách hàng chủ yếu dựa trên các đặc điểm của riêng khoản vay/ khách hàng đó mà chưa xem xét, đánh giá tác động của khoản vay/ khách hàng đó tới tổng thể rủi ro của danh mục đầu tư theo ngành, lĩnh vực kinh tế, khu vực địa lý và các sản phẩm cụ thể.

Chất lượng tín dụng có lúc, có nơi chưa được coi trọng đúng mức, việc tuân thủ quy trình tín dụng chưa nghiêm (thẩm định sơ sài, hồ sơ tài sản thế chấp chưa đầy đủ yếu tố pháp lý), một số cán bộ thẩm định tín dụng khi quyết định cho vay còn dựa trên yếu tố chủ quan về tài sản bảo đảm tiền vay, chưa coi trọng đến hiệu quả của phương án, dự án vay vốn. Việc kiểm tra sử dụng vốn vốn vay của cán bộ hỗ trợ quan hệ khách hàng còn mang tính hình thức, chiếu lệ, chưa thường xuyên, việc kiểm tra sau khi cho vay chưa được coi trọng như là một tất yếu của quy trình cho vay, từ đó dẫn đến một số khách hàng còn sử dụng vốn sai mục đích dẫn đến khó khăn trong việc trả nợ NH

Công tác xử lý nợ xấu còn một số vấn đề tồn tại, biện pháp tích cực thu hồi nợ ngay từ khi phát sinh nợ xấu chưa được coi trọng, chưa có phương pháp và cách thức theo dạng "cẩm nang" hướng dẫn toàn chi nhánh trong việc thu hồi nợ xấu dẫn đến hiệu quả chưa cao, chưa được thực sự chủ động trong việc xử lý nợ tồn đọng, vẫn ỷ lại vào việc dùng dự phòng rủi ro để xử lý sau đó chuyển hạch toán

theo dõi ngoại bảng tổng kết tài sản. Khâu

thẩm

định

khách hàng thường

được

xem là quan trọng

nhất,

tuy nhiên để có thể thẩm định có hiệu quả, chất lượng

thì việc thu thập thông tin phải

có chất

lượng.

Song khi thực

hiện

thẩm

định hồ

sơ khách hàng, các ngân hàng nhiều khi không thấy được rằng đây chính là điều

kiện

đánh giá khả năng của

khách hàng trong hiện tại và tương lai, mối quan hệ

giữa

các nội

dung thẩm

định

thực chất là tuân thủ nguyên tắc tín dụng,

yêu cầu

pháp luật về quan hệ kinh tế đôi khi thẩm định trên ý trí chủ quan, cảm tính trước

khi tiến hành thẩm định. Công

tác kiểm

tra, giám sát khách hàng chỉ dừng

lại ở

việc

kiểm

tra tính mục đích của việc sử dụng tiền vay chưa quan tâm đến hiệu

quả sử dụng tiền vay.

 Thứ tư:

Hệ thống

kiểm

soát và kiểm

toán nội

bộ tại

NHTMCP Việt

Nam chưa hỗ trợ hiệu quả tối đa cho công tác nâng cao chất lượng tín dụng.

Điều

40 và điều

41 của

Luật

Các TCTD năm 2010 đã quy định

rất

rõ về

nhiệm vụ của hệ thống kiểm soát nội bộ và của kiểm toán nội bộ trong mỗi ngân hàng. Tuy nhiên trong thực tế, việc phân định rõ chức năng nhiệm vụ của hai hệ

thống

này vẫn

còn bị hạn

chế tại

nhiều

ngân hàng. Có những

ngân hàng TMCP

chưa

đưa

ra được

quy trình kiểm

toán nội

bộ thống

nhất

áp dụng

cho toàn hệ

thống; Bộ phận kiểm toán nội bộ không trực thuộc và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Ban kiểm soát, mà vẫn dưới sự chỉ đạo của Ban điều hành. Cụ thể lương thưởng,

phụ cấp

trách nhiệm

của

bộ phận kiểm toán nội bộ do Ban điều hành chi trả, vì

vậy tính độc lập của kiểm toán nội bộ rất yếu, không thể thực hiện vai trò đánh

giá độc lập

khách quan đối với hệ thống

kiểm

soát nội

bộ theo quy định

trong

Luật

Các TCTD. Như vậy,

bộ phận

kiểm

toán nội

bộ đã không làm tốt

vai trò

của tuyến phòng thủ thứ ba theo quan điểm quản trị rủi ro hiện đại. Đây cũng là

một

trong những

tiêu chí phản

ánh sự yếu kém của công tác quản

trị rủi

ro tín

dụng tại NHTMCP Việt Nam trong thời gian qua.

Hoạt động TD là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro, vì vậy nhằm kịp thời phát

hiện các RRTD có thể phát sinh NH đã thiết lập hệ thống báo cáo qua rất nhiều

cấp bậc. Tuy hệ thống báo cáo này được thiết lập rõ ràng, nhưng vẫn xảy ra thực trạng cùng một nội dung về hoạt động TD nhưng CBTD phải báo cáo qua nhiều phòng ban. Công việc báo cáo nhiều đến mức với các chi nhánh nhỏ, Giám đốc chi nhánh phải phân công một cán bộ chuyên phụ trách thực hiện báo cáo theo yêu cầu

của Hội sở. báo cáo.

Với các chi nhánh lớn, phải thành lập một phòng ban chịu trách nhiệm

Với các NH áp dụng mô hình quản trị RRTD tập trung sẽ phân chia CBTD với ba chức năng cụ thể là: kinh doanh, QLRR và tác nghiệp. Nghĩa là cùng một hồ sơ TD của một KH nhưng sẽ phân chia nhiều CBTD cùng thực hiện theo ba chức

năng trên. Tại một số NH, khi sai phạm được phát hiện thì một số CBTD đã có

sự đùn đẩy

trách nhiệm

lẫn

nhau vì những

quy định

về trách nhiệm

của

mỗi

CBTD theo từng chức năng khác nhau còn chung chung, chưa thể, rõ ràng.

 Thứ năm: Cán bộ tín dụng còn nhiều hạn chế

được phân định cụ

Cán bộ tín dụng tiếp xúc trực tiếp khách hàng nên đôi khi có thể nảy sinh sự thông đồng giữa cán bộ quan hệ khách hàng và khách hàng dẫn đến khai thác nhu

cầu vốn để

vay hộ, vay ké hoặc khách hàng mua chuộc cán bộ

tín dụng để

vay

được tiền ngân hàng. Cán bộ

quan hệ

khách hàng phải đảm bảo tất cả

các giai

đoạn từ hướng dẫn lập hồ sơ, tiếp nhận và kiểm tra hồ sơ, tiến hành thẩm định ban đầu nội dung liên quan đến khách hàng như pháp lý, uy tín, tài chính, tài sản đảm bảo.

Công tác thu thập thông tin cho quá trình thẩm định còn nhiều bất cập, việc thu thập thông tin mất nhiều thời gian. Nhiều hồ sơ vay cán bộ tín dụng chủ yếu dựa vào các báo cáo tài chính của khách hàng, các phương án đề ra, dẫn đến việc

ra quyết

định

có thể không được

chính xác. Chưa

khai thác đầy

đủ các nguồn

thông tin, nhất là các thông tin từ bên ngoài dẫn đến việc phân tích đánh giá khách

hàng (tình hình tài chính, sản

xuất

kinh doanh, đầu

ra của

sản

phẩm,

khả năng

cân đối vốn…) chưa thật sự sát với thực tế.

Đội ngũ cán bộ tín dụng còn thiếu kinh nghiệm cũng là một khó khăn trong vấn đề mở rộng tín dụng. Chất lượng cán bộ tín dụng còn nhiều bất cập, chưa đáp

ứng

yêu cầu

thực

tế,

chất

lượng

thẩm

định

chưa

đạt

yêu cầu,

không đối

chiếu

phân tích với

các nguồn

thông tin khác vào báo cáo thẩm

định

là khá phổ biến,

kiểm tra các mặt bảo chất lượng...

tài chính thiếu chính xác, kiểm tra sử dụng vốn vay ít không đảm

 Thứ sáu: Hệ thống xếp hạng tín dụng thiếu đồng bộ, chủ yếu sử dụng phương pháp định tính

Hiện nay, hầu hết các ngân hàng TMCP Việt Nam mới chỉ có hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để đánh giá rủi ro của khách hàng, tuy nhiên hệ thống này vẫn còn một số hạn chế, cụ thể là: Thông tin tài chính trung bình ngành, nhóm ngành còn thiếu, chưa được thống kê đầy đủ và tin cậy nên việc phân tích xếp hạng tín

dụng các doanh nghiệp vay vốn cũng gặp phải những khó khăn nhất định. Chính bản thân ngân hàng khi thực hiện xếp hạng tín dụng nội bộ cũng phải tự tổng hợp số liệu từ các khách hàng của mình, cộng thêm kinh nghiệm của các chuyên gia để đưa ra số liệu chuẩn phục vụ cho việc đánh giá khách hàng. Các thông tin chuyên ngành mà các cán bộ trực tiếp đánh giá xếp hạng thu thập từ nhiều nguồn: Internet, doanh nghiệp, đối thủ cạnh tranh... ngân hàng chưa tạo dựng được một hệ thống thông tin có thể đáp ứng kịp thời, có hiệu quả cho việc phân tích, dự báo tình hình tiền tệ, lãi suất, tín dụng, tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp.

Chính xuất phát từ việc thiếu hệ thống đo lường trên mà chiến lược hoạt động, chính sách, thủ tục, quyết định tín dụng cũng như xác định lãi suất cho vay của ngân hàng hầu hết đều mang tính chung chung, định tính, chưa có căn cứ định lượng cụ thể nên chưa có tính khoa học, chính xác cao.

 Thứ bảy: Rủi ro về hệ thống Công nghệ thông tin

Hệ thống CNTT có thể tiềm ẩn một số rủi ro nhất định đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng, đặc biệt với hoạt động tín dụng. Các rủi ro có thể đến từ

việc

ngân hàng phải

sử dụng

các phần

mềm,

dịch

vụ hỗ trợ công nghệ,

đường

truyền, hệ thống cung cấp từ nhiều đơn vị cung cấp khác nhau; Từ việc vận hành sai, không tuân thủ chặt chẽ quy trình theo dõi, kiểm soát, bảo mật an ninh, an toàn hệ thống hay từ các rủi ro do thiên tai, hỏa hoạn; Rủi ro từ việc tấn công mạng (hacker)...

2.3.3 Nguyên nhân

2.3.3.1 Nhóm nguyên nhân chủ quan

 Thứ nhất, một số ngân hàng lớn khó tăng vốn vì bị chi phối bởi Nhà nước

Nguyên nhân các NHTMCP Nhà nước khó tăng vốn vì các ngân hàng đều có cổ phần chi phối thuộc về Nhà nước. Mà đã là ngân hàng có vốn nhà nước thì lại phải tuân thủ nhiều hơn các quy định quản lý so với các ngân hàng tư nhân. Điển hình trong số các quy định đó là liên quan đến việc phân bổ lợi nhuận. Nếu như ngân hàng tư nhân có thể dễ dàng được cổ đông đồng thuận chia cổ tức bằng cổ phiếu thì các ngân hàng có vốn nhà nước lại không được chia bằng cổ tức. 3 năm qua (từ năm 2016 – 2018), cả BIDV, Vietcombank và VietinBank đều phải chi nhiều

nghìn tỷ mỗi năm để trả cổ tức bằng tiền mặt cho Nhà nước cho dù vấn đề tăng vốn đã vô cùng cấp bách. Hơn nữa, giới hạn về sở hữu Nhà nước tại các ngân hàng (tối thiểu là 65%), chẳng hạn như VietinBank, cũng gây khó khăn trong việc gọi vốn. Ngoài ra, quy định không được bán vốn dưới giá trị thị trường cũng gây khó khăn cho các nhà quản lý của những ngân hàng đang chiếm thị phần lớn nhất trong hệ thống tài chính ngân hàng Việt, ví dụ như Vietcombank.

Những rào cản trên đã khiến các ngân hàng khó khăn trong việc gia tăng nguồn vốn cấp 1 để đáp ứng quy định về hệ số an toàn vốn (CAR) ­ vốn đang ở mức thấp nhất trong hệ thống (chỉ 9,39%), tính theo quy định tại Thông tư 36 (tối thiểu 9%). Khi thời hạn áp dụng Basel 2 cận kề, nếu việc tăng vốn vẫn không thực hiện được thì CAR còn xuống sâu hơn nữa bởi theo tính toán của các nhà quản trị thì chênh lệch CAR giữa cách tính của Thông tư 36 và Basell II vào khoảng 1,5%. Đây trở thành một rủi ro hiện hữu nếu các ngân hàng không thể nâng đủ vốn vào thời điểm năm 2020 thì Chính phủ có thể phải bơm vốn, và theo tính toán của IMF, việc gia tăng vốn này có thể làm giảm 1­1,5% GDP.

 Thứ hai, một số nhà quản trị ngân hàng cấp cao nhận thức chưa đầy chạy theo lợi ích trước mắt làm ảnh hưởng đến CLTD

đủ,

Trong thời gian qua, trong lĩnh vực cho vay đầu tư tài chính, góp vốn vào các doanh nghiệp, nhiều ngân hàng TMCPVN cũng có các sai sót về phạm vi, mục

đích, giới hạn cho vay theo qui định của Ngân hàng Nhà nước hoặc ủy thác cho

nhiều công ty con thực hiện các nghiệp vụ chưa được cấp phép theo qui định của

pháp luật. Một số nhà quản trị ngân hàng có những vi phạm cụ thể như cho vay

vượt giới hạn quy định, cố ý lách luật, tập trung tín dụng quá mức cho một số ít khách hàng cho người thân và các thành viên của Hội đồng quản trị. Cũng có hiện tượng Ban kiểm soát, Ban điều hành và các cổ đông lớn của ngân hàng chi phối

hoạt động tín dụng theo hướng sử dụng

vốn của

ngân hàng vào mục đích riêng.

Điều 126, điều 127 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 đã qui định những

trường

hợp

không được

cho vay và hạn

chế cho vay, tuy nhiên, thực tế các qui

định này hoàn toàn không có tác dụng do các NHTM chấp thuận ty được Hội đồng sáng lập lập ra để hợp thức hoạt động này.

cho vay các công

Bên cạnh

đó hiện

tượng

sở hữu

chéo, đầu

tư ngoài ngành của

các ngân

hàng và doanh nghiệp nhà nước diễn ra phổ biến đã dẫn tới các khoản cho vay,

đầu

tư lòng vòng, bất

chấp

quy định,

gây hậu

quả nghiêm trọng.

Đối

với hệ

thống ngân hàng cổ phần Việt Nam, sở hữu chéo dẫn tới rủi ro nhóm ngân hàng

liên quan và rủi

ro liên thông giữa

các thị trường bất động sản, chứng khoán do

các ngân hàng Việt khoán

Nam đều

liên quan tới

kinh doanh bất

động

sản,

chứng

 Thứ ba, do năng lực

quản

trị của

ngân hàng thương

mại cổ

phần Việt

Nam còn yếu

kém cộng

thêm áp lực cạnh tranh để phát triển thị phần tín dụng

dẫn đến nguy cơ giảm nhẹ các chuẩn mực trong quy trình tín dụng

Giai đoạn 2007 đến 2013 là những năm tăng trưởng tín dụng nóng dẫn đến

lạm

phát bùng nổ lên tới

hơn

18%. Giai đoạn

2014 ­ 2018 NHNN thực

hiện

chính sách tiền

tệ thắt

chặt

thông qua kênh lãi suất

(trần

lãi suất

huy động) và

thông qua kênh tín dụng

(hạn

mức

tăng trưởng

tín dụng

và hạn

mức

tín dụng

thắt chặt cho một số ngành không khuyến khích) đã chặn đà tốc độ tăng trưởng tín dụng. Tuy nhiên, năm 2014 ­ 2018 lại là giai đọan bắt đầu bùng nổ nợ quá hạn,

khi các NHTMCP cạnh

tranh tăng trưởng

thị phần

tín dụng

nhanh quá mức

kiểm soát, nhiều khoản vay được phê duyệt dựa theo nhu cầu khách hàng hơn là dựa trên các nguyên tắc cấp tín dụng, giao khoán lương thưởng theo chỉ tiêu dư

nợ cho cán bộ tín dụng.

Đồng thời,

sự tuân thủ quy trình cấp

tín dụng

tại

một

số NHTMCP có những

thời

điểm

chưa

thực

sự tuân thủ nghiêm túc, một số

khoản

vay có giá trị lớn

được

phê duyệt,

ngoài ngành theo chỉ đạo của cấp lãnh

đạo hoặc của cổ đông.

Nhiều ngân hàng TMCPVN nhỏ,


yếu năng lực cạnh tranh buộc phải xem

việc định giá tài sản

thế chấp

cao, đơn

giản

hóa thủ tục

và rút ngắn

thời

gian

thẩm

định,

cho vay là phương thức

cạnh

tranh. Việc phá lệ của các ngân hàng

nhỏ có tác động đến các ngân hàng lớn do hiệu ứng từ các đánh giá, so sánh của

khách hàng lớn, khách hàng truyền

thống của ngân hàng lớn.

Từ nhiệm vụ đánh

bật các ngân hàng nhỏ ra khỏi thị phần của mình làm cho việc thẩm định trở nên sơ sài, chiếu lệ, định giá tài sản theo giá thị trường, hậu quả là, khách hàng được

cấp tín dụng theo yêu cầu hơn là theo nhu cầu nên chỉ cần khách hàng gặp một

Xem tất cả 254 trang.

Ngày đăng: 23/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí