Tuy nhiên, chất lượng của đội ngũ nhân lực làm công tác tín dụng tại các NHTM vẫn còn nhiều bất cập. Cán bộ thực thi nhiệm vụ chưa thực hiện đúng quy trình, quy định; một số cán bộ chuyên môn nghiệp vụ trình độ năng lực còn hạn chế, chưa thường xuyên nghiên cứu học tập văn bản chế độ, hiểu và nắm bắt nghiệp vụ chưa đầy đủ, trong cho vay còn đề cao điều kiện về tài sản đảm bảo, chưa chú trọng đến yếu tố hiệu quả của phương án, dự án SXKD. Bên cạnh đó lực lượng CB trẻ còn non kinh nghiệm trong khi một bộ phận CB lâu năm thì lơ là, ít trau dồi chuyên môn nghiệp vụ dẫn đến chất lượng thẩm định cho vay bị ảnh hưởng. Ngoài ra, vấn đề đạo đức, tinh thần trách nhiệm trong công việc của đội ngũ cán bộ làm công tác cho vay cũng còn hạn chế, chưa đủ cao để vượt qua các cám dỗ, cạm bẫy mà bộ phận này chứa đựng. Cá biệt còn có cán bộ NH vi phạm phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp đã phải xử lý kỷ luật nghiêm khắc.
2.2.3.2. Hạn chế về thông tin, trang thiết bị phục vụ cho công tác thẩm
định hồ sơ vay vốn:
Dù đã có nhiều tiến bộ về khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin ngày một phát triển nhưng nhìn chung, Việt Nam vẫn là một nước lạc hậu về thông tin, nguồn cung cấp thông tin chưa đầy đủ, cập nhật, còn nghèo nàn, kém phát triển so với thế giới. Thiếu thông tin, các số liệu điều tra, thống kê về các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, nghiên cứu khoa học…đã hạn chế cơ hội để các DNNVV có thể tiếp cận, nắm bắt thị trường. Đối với các NHTM, cũng gây khó khăn không kém khi phải mất nhiều thời gian để thẩm định hồ sơ vay và đưa ra các quyết định tín dụng, vì khó nắm bắt kịp thời sự thay đổi về thông tin thị trường trong nước lẫn các thông tin thương mại quốc tế, thông tin về lĩnh vực hoạt động của DN cũng như các đối tác làm ăn có liên quan.
Từ khi đi vào hoạt động các NHTM đã luôn chú trọng áp dụng các thành tựu của khoa học công nghệ nói chung và công nghệ ngân hàng nói riêng. Hệ thống máy tính nối mạng được trang bị cho các phòng ban đã góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh, nâng cao chất lượng cung cấp số liệu, nâng cao chất lượng thẩm
định. Tuy nhiên việc áp dụng còn nhiều hạn chế, một phần do dữ liệu của Ngân hàng Trung ương không được cập nhật thường xuyên, mặt khác các chi nhánh chưa thiết lập được ngân hàng dữ liệu riêng cho mình.
Một số NHTM cũng chưa chú trọng áp dụng các phần mềm trong thẩm định, do vậy việc thẩm định nhiều khi còn mang tính thủ công cục bộ cá nhân. Vì vậy trong nhiều trường hợp đã xảy ra tình trạng sai lệch do việc tính toán thủ công gây nên. Điều này một mặt làm giảm độ tin cậy, chính xác của các kết quả thẩm định, mặt khác làm hao tổn thời gian và công sức của cán bộ thẩm định cũng như của khách hàng, có thể làm mất cơ hội đầu tư của khách hàng do phải chờ đợi quyết định có được vay vốn hay không và làm ảnh hưởng tới uy tín của ngân hàng.
Có thể bạn quan tâm!
- Thẩm Định Rủi Ro Tín Dụng Độc Lập Đối Với Khoản Vay:
- Khái Quát Tình Hình Hoạt Động Nhtm Tỉnh Phú Thọ.
- Dư Nợ Cho Vay Và Tốc Độ Tăng Trưởng Dư Nợ Tín Dụng Dnnvv Tại Các Nhtm Qua Các Năm.
- Nguyên Nhân Dẫn Đến Hạn Chế Trong Quy Trình, Tổ Chức Thẩm Định Và Cơ Chế Quản Lý, Chính Sách Cho Vay:
- Nguyên Nhân Dẫn Đến Hạn Chế Thẩm Định Dự Án Vay Vốn:
- Tổng Hợp Kết Quả Nghiên Cứu, Phân Tích Thực Trạng Công Tác Thẩm
Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.
2.2.3.3. Quy trình, tổ chức thẩm định và cơ chế quản lý, chính sách cho vay còn bất cập:
Mặc dù nhiều NHTM trên địa bàn tỉnh Phú Thọ hiện nay đã cố gắng xây dựng và không ngừng hoàn thiện cơ chế, chính sách tín dụng nhằm hạn chế rủi ro chủ quan khi thẩm định cho vay, nhưng ít nhiều vẫn tồn tại sự thiếu đồng bộ, còn kẽ hở và chưa kịp thời cập nhật với sự thay đổi trong chính sách của nhà nước, những biến động của nền kinh tế. Đây sẽ là cơ sở phát sinh rủi ro tiềm ẩn cho hoạt động của ngân hàng, đồng thời cũng là môi trường tốt để một bộ phận cán bộ cho vay và khách hàng lợi dụng để trục lợi cá nhân, gây thiệt hại cho ngân hàng.
Có thể nói cho đến nay hầu hết các ngân hàng chưa có các phòng thẩm định riêng, Mặc dù trong thời gian qua phòng tín dụng doanh nghiệp đã ra đời với nhiệm vụ chuyên trách thẩm định các dự án đầu tư của DN, tuy vậy trên thực tế công tác thẩm định ở phòng chưa có sự tách biệt, nghiệp vụ thẩm định vẫn được lồng ghép với nghiệp vụ tín dụng. Một cán bộ tín dụng phải kiêm rất nhiều việc từ tiếp nhận hồ sơ vay vốn, kiểm soát tính đầy đủ hợp lệ của các loại giấy tờ, thu thập thông tin để thẩm định khách hàng vay, thẩm định dự án đầu tư đến lập tờ trình rồi kiểm tra, giám sát theo dõi nợ vay… Khối lượng công việc lớn như vậy cộng thêm số các dự án thẩm định ngày càng tăng khiến cho các cán bộ không có đủ thời gian để thu
thập các thông tin cần thiết phục vụ cho quá trình thẩm định, từ đó làm giảm tính chính xác của các kết quả cuối cùng. Bên cạnh đó sự phối hợp giữa các bộ phận trong quá trình thẩm định còn hạn chế, cán bộ thẩm định thường làm việc khá độc lập, ít có sự chia sẻ hỗ trợ thông tin và kinh nghiệm cho nhau.
Các NHTM xây dựng nội dung và quy trình thẩm định đầy đủ, khoa học và chi tiết, song việc tuân thủ theo quy trình đó đôi khi chỉ mang tính hình thức bên ngoài. Trên thực tế, các nội dung trong quy trình chỉ được thẩm định một cách sơ sài và chưa đầy đủ. Một số NHTM chỉ tập trung đánh giá khía cạnh tài chính cũng như khả năng trả nợ của DN, tài sản bảo đảm tiền vay, các nội dung khác mới chỉ được đánh giá một cách chung chung, sơ sài, không được quan tâm một cách đúng mức.
2.2.3.4. Hạn chế trong thẩm định năng lực điều hành, quản lý của DN:
Năng lực điều hành, quản lý của DN là một yếu tố quan trọng, quyết định nhiều đến sự thành bại của một DN bởi lẽ nếu điều hành, quản lý tốt DN sẽ đưa ra những kế hoạch, định hướng, chiến lược kinh doanh hiệu quả giúp DN vượt qua khó khăn, ngày một phát triển bền vững, còn nếu không, DN dù có đang hoạt động tốt nhưng nguy cơ tiềm ẩn rủi ro là không nhỏ, đặc biệt là trong giai đoạn cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, để giữ được những nhân sự tốt, có năng lực, đòi hỏi khả năng điều hành, quản lý tốt của các nhà quản trị DN.
Hiện nay phần lớn các DNNVV áp dụng phương pháp “gia đình trị” là chủ yếu, mà bản thân chủ DN, Giám đốc, cán bộ quản lý của DN cũng có trình độ, kỹ năng quản lý còn hạn chế. Số lượng DNNVV có chủ DN, giám đốc giỏi, chuyên môn cao và năng lực quản trị, điều hành tốt chưa nhiều. Một bộ phận lớn các chủ DN, Giám đốc chưa được đào tạo bài bản về kinh doanh và quản lý, còn thiếu kiến thức kinh tế xã hội và kỹ năng quản trị kinh doanh, từ đó, dẫn đến khuynh hướng phổ biến là các DN hoạt động quản lý chủ yếu trên kinh nghiệm, thiếu tầm nhìn chiến lược, dễ phát sinh rủi ro.
Tuy nhiên, việc thẩm định yếu tố trên tại các NHTM cũng còn nhiều hạn
chế do thiếu các nguồn thông tin hỗ trợ và việc thẩm định còn mang tính sơ sài, hình thức.
2.2.3.5. Hạn chế trong phân tích tình hình tài chính của DN:
Việc phân tích tài chính của DN hiện nay không khó vì hầu hết NHTM đều có chương trình vi tính hóa giúp CBTD có thể phân tích nhanh, chính xác tình hình tài chính DN khi nhập số liệu vào. Tuy nhiên, công tác trên chỉ có ý nghĩa nếu như các số liệu mà đơn vị cung cấp cho ngân hàng là đáng tin cậy, chuẩn xác. Trong khi đó, khả năng cung cấp đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy các số liệu báo cáo của DN còn hạn chế, dẫn đến việc đánh giá tình hình tài chính DN của ngân hàng không đạt hiệu quả cao.
NHTM chưa có sự kết hợp các phương pháp trong quá trình thẩm định. Mặt khác trong việc sử dụng từng chỉ tiêu cũng còn nhiều hạn chế, phương pháp so sánh các chỉ tiêu là phương pháp phổ biến mà cán bộ thẩm định sử dụng nhiều nhất, tuy vậy việc so sánh đôi khi còn mang tính giản đơn. Các chỉ tiêu tổng hợp chưa có sự so sánh với các DN cùng ngành, với các định mức kinh tế - kỹ thuật của Bộ ngành.
2.2.3.6. Hạn chế trong thẩm định dự án vay vốn của DN:
Việc thẩm định dự án vay vốn của DNNVV thực tế còn nhiều hạn chế do khách hàng kém năng lực trong việc lập dự án, và tư tưởng chưa xem trọng công tác thẩm định dự án vay vốn của ngân hàng. Các phương pháp phân tích rủi ro chưa được chú trọng một cách đúng mức. Các tiêu chuẩn về công nghệ, thiết bị cũng chưa có chuẩn mực nào để kiểm tra, đối chứng. Cán bộ thẩm định ít khi dành nhiều thời gian và công sức đi sâu đánh giá từng loại để từ đó có hướng tư vấn, cùng chủ đầu tư tìm các biện pháp phòng ngừa. Bên cạnh đó, phân tích rủi ro thông qua phân tích độ nhạy được coi là một trong những phương pháp phân tích hiện đại, tuy vậy vẫn chưa được NH sử dụng nhiều, nếu có cũng chỉ dừng lại ở việc phân tích độ nhạy một chiều. Việc lựa chọn yếu tố dao động, khoảng dao động phụ thuộc nhiều vào sự đánh giá chủ quan của cán bộ thẩm định chứ không được các ngân hàng quy định cụ thể trên cơ sở tổng kết các dự án đặc trưng ở các lĩnh vực sản xuất kinh
doanh khác nhau.
Bên cạnh đó một số Ngân hàng quá xem trọng tài sản thế chấp của DN làm tài sản bảo đảm tiền vay mà chưa coi trọng hiệu quả của phương án, dự án đầu tư của DN. Trong khi các doanh nghiệp nhỏ và vừa tài sản bảo đảm tiền vay chủ yếu có nguồn gốc từ tài sản cá nhân của chủ doanh nghiệp và giá trị của các tài sản cá nhân thường thấp hơn rất nhiều so với nhu cầu các khoản vay để phát triển doanh nghiệp. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các DNNVV khó tiếp cận được với nguồn vốn vay ngân hàng.
2.2.3.7. Hạn chế trong việc thẩm định tài sản bảo đảm:
Tài sản thế chấp được xem là phương tiện bảo vệ cuối cùng cho quyền lợi của ngân hàng trong trường hợp khách hàng kinh doanh không hiệu quả, mất khả năng thanh toán cho ngân hàng. Do đó, việc nhận và thẩm định tài sản thế chấp sao cho đảm bảo an toàn với ngân hàng, vừa không gây thiệt thòi cho DN có ý nghĩa quan trọng.
Tuy nhiên, việc thực hiện công tác này tại các NHTM thực tế còn nhiều bất cập do các hạn chế xuất phát từ bản thân ngân hàng và bởi cơ chế, chính sách, quy định pháp lý thiếu ổn định của nhà nước, sự thiếu hợp tác của các cơ quan ban ngành có liên quan.
2.2.3.8. Công tác chấm điểm, xếp hạng tín dụng Doanh nghiệp chưa phát huy hiệu quả:
Chấm điểm, xếp hạng tín dụng DN là một công tác rất quan trọng, là công cụ hữu hiệu giúp cảnh báo, phát hiện sớm và kiểm soát các rủi ro từ khách hàng, từ đó giúp ngân hàng có thể đưa ra các quyết định từ chối hoặc xem xét cho vay kèm theo giải pháp, hướng xử lý cho vay đối với khách hàng nhằm hạn chế rủi ro, tránh thiệt hại cho ngân hàng. Với ý nghĩa đó, hệ thống chấm điểm, xếp hạng tín dụng DN đã được xây dựng tại hầu hết các NHTM dựa trên các tiêu chí đánh giá định tính (thông qua BCTC của khách hàng) và định lượng (dựa trên các thông tin phi tài chính mà NH thu thập được).
Tuy nhiên, công tác chấm điểm, xếp hạng tín dụng DN tại nhiều ngân hàng còn hạn chế, dẫn đến kết quả chấm điểm chưa phản ánh hết mức độ rủi ro khi cho vay khách hàng. Nhiều trường hợp khách hàng được xếp hạng tín dụng cao, có uy tín nhưng thực tế lại chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro và ngược lại, xếp hạng tín dụng thấp, thuộc nhóm rủi ro cao nhưng thực tế lại an toàn.
2.2.3.9. Một số hạn chế khác:
- Hạn chế năng lực quản lý điều hành của NHTM: Một số NHTM trên địa bàn đang thiếu hụt các cán bộ lãnh đạo chủ chốt, nhất là trong tổ chức nhân sự của một số NHTM cổ phần luôn biến động do cán bộ quản lý không đủ năng lực điều hành bị xa thải, cách chức. Các NHTM cổ phần thành lập chi nhánh trên địa bàn, ban lãnh đạo hầu hết không phải người của địa phương cho nên rất hạn chế trong việc nắm bắt tình hình kinh tế xã hội của Tỉnh cũng như những tồn tại yếu kém, điểm mạnh của các ngành, lĩnh vực kinh tế, DN sản xuất kinh doanh trên địa bàn. Điều này không chỉ ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của NHTM, mà còn kéo theo rủi ro về tổ chức nhân sự và sự đồng thuận, đoàn kết trong cán bộ, nhân viên.
- Hạn chế trong công tác kiểm tra, kiểm soát: Công tác kiểm tra, kiểm soát tại hầu hết các NHTM chưa được xem trọng đúng mức, trong quá trình kiểm tra, kiểm soát còn lỏng lẻo, qua loa, chưa sâu, sát và kịp thời, nhất là công tác kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay.
2.2.4. Nguyên nhân của những hạn chế.
Ngoài các lý do khách quan xuất phát từ tình hình kinh tế vĩ mô có nhiều biến động, ngoài tầm kiểm soát, dự đoán của con người, các lý do chủ quan, nhược điểm nội tại của bản thân các NHTM cũng góp phần đáng kể dẫn đến việc thẩm định cho vay chưa đạt hiệu quả cao như mong muốn.
2.2.4.1. Nguyên nhân dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế:
Trình độ chuyên môn, kinh nghiệm của đội ngũ CB còn bất cập.
Hiện nay, tuy đại bộ phận CBTD tại các ngân hàng đều đã được đào tạo từ
các trường đại học, cao đẳng chuyên ngành, nhưng kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm, đặc biệt là khả năng ứng dụng vào công tác thẩm định cho vay còn hạn chế, đặc biệt đối với các CBTD trẻ. Theo kết quả thống kê năm 2011 của Phòng Hành chính Nhân sự Ngân hàng Nhà nước tỉnh Phú Thọ, hiện nay ngành ngân hàng trên địa bàn số CBTD có bằng đại học trở lên chiếm 65%, cao đẳng chiếm 30%. Thực tế tại các NHTM hiện nay, lực lượng CBTD trẻ, đặc biệt là các sinh viên mới ra trường thường chiếm tỷ lệ cao (chiếm 55%). Bên cạnh ưu điểm là sức trẻ, lòng nhiệt huyết, được đào tạo cơ bản, lực lượng này cũng bộc lộ những yếu điểm rất lớn là sự thiếu nhạy bén, tinh tế, nhạy cảm, kinh nghiệm, khả năng ứng xử, ứng phó với các tình huống xảy ra trong quá trình tác nghiệp. Vì vậy, dễ dẫn đến rủi ro trong thẩm định cho vay nếu không có sự quan tâm, đào tạo, hướng dẫn một cách chu đáo của lãnh đạo ngân hàng.
Ngoài ra, tại các NHTM cũng tồn tại một bộ phận CBTD có thâm niên trong nghề, nhưng lại tự bằng lòng với kiến thức, kinh nghiệm được trang bị từ trường lớp, từ thực tế công tác mà không chịu khó học hỏi nghiên cứu, trau dồi cập nhật thêm kiến thức. Vì vậy, dẫn đến trong quá trình thẩm định cho vay chủ yếu dựa vào kinh nghiệm là chính, ít quan tâm đến tính chính xác, hợp lý của thông tin, số liệu nêu ra trong phương án, mà chỉ thụ động lắp ráp số liệu được cung cấp sau đó sử dụng máy tính áp dụng chương trình để tính toán, dẫn đến công tác thẩm định không đạt hiệu quả cao, mang nặng tính hình thức và chứa đựng nhiều rủi ro.
Đạo đức, tinh thần trách nhiệm trong công việc còn hạn chế.
Bộ phận cho vay luôn là nơi chứa đựng nhiều cạm bẫy mà không ít CBTD đã không thể vượt qua. Một bộ phận cán bộ ngân hàng làm công tác tín dụng không chỉ với mục đích yêu nghề, được ngân hàng và mọi người coi trọng và đề cao, có mức lương hấp dẫn hơn so với các bộ phận khác mà còn với tâm lý mau làm giàu do có cơ hội được hưởng bổng lộc khách hàng mang lại từ vị trí này.
Vì vậy, mặc dù hầu hết các NH đã không ngừng xây dựng và hoàn thiện quy trình cho vay ngày một chi tiết với các quy định chặt chẽ nhưng do có chức năng
thẩm định và đề xuất cho vay, với sức hút của đồng tiền, nhiều CBTD đã cố tình vi phạm, cấu kết với khách hàng kém năng lực để lập hồ sơ vay không đúng với thực tế, hạ chuẩn cho vay nhằm thu lợi bất chính, gây thiệt hại cho ngân hàng.
Tuy nhiên, khi nói đến rủi ro đạo đức trong hoạt động tín dụng, ta thường đề cập đến rủi ro đạo đức của CBTD mà ít nói đến rủi ro đạo đức của người quản lý. Một nhà quản lý làm đúng chức năng, nhiệm vụ thì sẽ ngăn chặn được rủi ro này. Nhưng trên thực tế, vì lợi ích cá nhân hoặc của nhóm tập thể cán bộ quản lý trong công tác điều hành đã vô tình hay cố ý tạo điều kiện, kẽ hở cho loại rủi ro này phát triển. Chẳng hạn khi cán bộ quản lý hay nhóm cán bộ quản lý có mối quan hệ lợi ích với khách hàng, mặc dù điều kiện vay vốn của khách hàng chưa đủ hoặc thậm chí không đủ điều kiện, bị CBTD đề xuất là không cho vay, nhưng vì lý do tế nhị nào đó, cán bộ quản lý vẫn hướng dẫn khách hàng hợp thức hóa hồ sơ, thậm chí yêu cầu CBTD thực hiện cho vay theo mong muốn của mình và thực tế là ít CBTD có thể bảo vệ ý kiến ban đầu của mình. Do vậy, những trường hợp như thế, khả năng dẫn đến rủi ro tín dụng là rất lớn.
Theo số liệu tổng hợp công tác thanh tra, kiểm tra năm 2011 của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh Phú Thọ, trong năm các NHTM trên địa bàn đã có hình thức xử lý kỷ luật đối với 11 CBTD vi phạm đạo đức nghề nghiệp, đặc biệt trong đó có 01 giám đốc chi nhánh NHTM.
2.2.4.2. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong thu thập thông tin, trang thiết bị phục vụ thẩm định cho vay:
Những tồn tại trong công tác quản lý nhà nước tại một số cơ quan ban ngành, DN.
Hiện nay, một số nguồn thông tin chủ yếu mà các NHTM khai thác để thẩm định hồ sơ vay vốn khách hàng là CIC và các website, thông tin từ các cơ quan ban ngành nhà nước, các DN, có liên quan đến hồ sơ khách hàng cần thẩm định. Theo số liệu tổng hợp của Phòng Nghiên cứu Tổng hợp năm 2011 của Ngân hàng Nhà nước tỉnh Phú Thọ thì hiện nay 100% các NHTM đã đăng ký sử dụng CIC, song số