Đề Nghị Cơ Quan Quản Lý Nhà Nước Thực Hiện Một Số Giải Pháp Nhằm Hỗ Trợ Và Phát Triển Dnnvv:


Hoàn thiện hệ thống chấm điểm xếp hạng tín dụng DN theo hướng bổ sung đầy đủ các chỉ tiêu tài chính, với các thang điểm có khoảng cách ngắn nhằm chấm điểm và xếp hạng DN đúng thực trạng, tránh cho ra kết quả xếp hạng trùng khớp giữa các đơn vị có tình hình tài chính khác nhau tương đối. Về phương diện đánh giá phi tài chính, cần đưa ra các chỉ tiêu cụ thể, dễ hiểu, dễ đo lường và đánh giá, để công tác chấm điểm được chính xác, tránh tình trạng sơ sài, qua loa, ước lượng khi thực hiện.

Nâng cao tinh thần trách nhiệm của CB khi thực hiện công tác chấm điểm và xếp hạng tín dụng DN. Muốn vậy, cần có các quy định, chế tài nghiêm khắc để buộc các cá nhân có trách nhiệm thực hiện công tác chấm điểm, xếp hạng DN phải tuân thủ đúng quy trình chấm điểm, đảm bảo tính khách quan, trung thực của kết quả chấm điểm. Ngoài ra, cần thiết phải xây dựng chương trình chấm điểm và xếp hạng tín dụng mang tính chuyên nghiệp cao theo hướng tự động hoá, liên kết với hệ thống quản lý mạng của ngân hàng, tránh tình trạng thực hiện và lưu trữ thủ công như hiện nay, để công tác kiểm tra, giám sát thực hiện được phát huy hiệu quả.

3.3.3.8. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát.


Kiểm tra, kiểm soát là việc làm hết sức cần thiết và quan trọng, nhằm đề phòng, ngăn ngừa và xử lý kịp thời, chính xác những hiện tượng có thể dẫn đến rủi ro trong hoạt động của ngân hàng. Do đó:

Củng cố kiện toàn hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ tại các NHTM. Hệ thống kiểm tra nội bộ chuyên trách và các cán bộ kiểm tra hoạt động độc lập với các bộ phận nghiệp vụ và được độc lập đánh giá, kết luận, kiến nghị trong hoạt động kiểm tra kiểm toán.

Xây dựng hoàn chỉnh các quy chế, quy trình kiểm tra. Xây dựng chương trình kiểm tra định kỳ (kể cả hệ thống giám sát từ xa) để giám sát phòng ngừa ngăn chặn mọi sai sót, mọi hành vi vi phạm pháp luật để bảo đảm an toàn hoạt động kinh doanh toàn hệ thống và từng đơn vị thàn viên. Chủ động kiểm tra kiến


nghị xử lý các trường hợp sai phạm. Đảm bảo mọi hoạt động của các NHTM được kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

Hệ thống kiểm tra phải chịu trách nhiệm trước ban lãnh đạo NHTM về việc kiểm tra giám sát bảo đảm thông suốt, an toàn và đúng luật pháp.

Thực hiện việc kiểm tra, giám sát bằng các biện pháp xây dựng chương trình tin học về quản lý khai thác thông tin giữa Ban kiểm tra, kiểm toán nội bộ với các phòng, ban tại NHTM. Coi trọng việc kiểm tra giám sát từ xa nhằm thu thập các thông tin cảnh báo để ngăn chặn các sai sót có thể ảnh hưởng xấu đến hoạt động của Chi nhánh.

Nâng cao chất lượng công tác thẩm định cho vay các Doanh nghiệp nhỏ và vừa trong hoạt động tại các Ngân hàng Thương mại trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ - 14

Trên cơ sở xây dựng các hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả chung của NHTM; xây dựng và phát triển hệ thống thu thập, quản lý và cung cấp thông tin qua quản lý rủi ro trên tất cả các mặt hoạt động phục vụ cho việc kiểm tra, kiểm soát đạt hiệu quả hơn.

Công tác thanh tra, kiểm soát được đề cập ở đây không chỉ nằm vào phía đơn thuần là kiểm tra khách hàng mà còn quan trọng ở chỗ phải kiểm tra thanh lọc những cán bộ tín dụng mất phẩm chất, tiêu cực, gây thất thoát tài sản Nhà nước và làm mất uy tín NHTM.

3.3.3.9. Một số giải pháp khác.


Tăng cường công tác phòng ngừa nợ quá hạn.


- Biện pháp phòng ngừa khoản vay dẫn đến nợ quá hạn: biện pháp này thực hiện ngay khi ngân hàng tiến hành kiểm tra việc thực hiện vốn vay, nếu thấy DN bắt đầu có dấu hiệu dẫn đến rủi ro, dẫn đến nợ quá hạn thì ngân hàng cần xử lý một số biện pháp ngăn ngừa. Ngoài ra ngân hàng có thể yêu cầu DN cung cấp thêm các tài sản đảm bảo độ tăng cường an toàn cho nguồn vốn của ngân hàng trong trường hợp tài sản thế chấp bị giảm giá trị, trong trường hợp này nếu cần thiết ngân hàng có thể tiến hành gia hạn nợ cho DN.


- Đối với các khoản nợ quá hạn thì ngân hàng cần xem xét lại các vấn đề trong quá trình thẩm định xem ngân hàng mắc những sai sót gì, trong khâu nào, vấn đề nào…xem xét lại khả năng tài chính của DN và quá trình DN sử dụng vốn vay có đúng mục đích không. Từ đó đưa ra những giải pháp xử lý mang lại hiệu quả cao trong thời gian ngắn.

- Khi tiến hành thu hồi nợ quá hạn, ngân hàng nên sử dụng biện pháp khai thác khi DN vay vốn có thiện chí trả nợ, ngân hàng có thể gia hạn nợ hoặc điều chỉnh hợp đồng tín dụng tương ứng với một chu kỳ sản xuất của DN, cho phép DN tự khắc phục khó khăn về tài chính để hoàn trả nợ ngân hàng càng sớm càng tốt. Khi DN không có thiện chí trả nợ như đã cam kết trong hợp dồng tín dụng thì ngân hàng mới tiến hành thanh lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ.

Tăng cường công tác tiếp thị.


- Ngân hàng nên xúc tiến việc tiếp thị đối với các DN mới nhằm giới thiệu những khả năng mà ngân hàng có thể đáp ứng, kích thích nhu cầu vay vốn của DN.

- Chủ động tiếp cận từng DN, chọn lọc những nhóm DN phù hợp, tiếp tục tuyên truyền sâu rộng tới từng DN nhằm đem lại lòng tin, sự tin tưởng của họ với ngân hàng.

- Định kỳ mở hội nghị khách hàng, từ đó có thể khắc phục những sai sót đồng thời phát huy những mặt mạnh. Ngoài ra ngân hàng có thể thực hiện khảo sát qua phiếu điều tra nhằm thu thập thông tin liên quan. Qua đó giúp ngân hàng rút ra những dữ kiện hữu ích cho việc xây dựng phương án hành động, ứng xử thích hợp.

Mở rộng địa bàn đầu tư.


- Một số NHTM Cổ phần mới thành lập chi nhánh trên địa bàn, vì vậy cần xây dựng kế hoạch mở rộng mạng lưới kinh doanh, tích cực mở rộng huy động vốn trong các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân…để thu hút các khoản tiền nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi.


- Khu công nghiệp tập trung nhiều DN hoạt động, ngành nghề kinh doanh đa dạng. Vì thế ngân hàng cần chủ động tìm kiếm địa điểm thuận lợi để mở thêm chi nhánh ở đây.

- Chủ động nghiên cứu, tìm kiếm những thị trường tiềm năng để mở thêm những chi nhánh ngoại tỉnh.

Có chính sách ưu đãi về lãi suất.


- Đối với những DN tiềm năng, ngân hàng nên xem xét và áp dụng một lãi suất cho vay ưu đãi nhằm giữ chân và tạo quan hệ tín dụng lâu dài. Khuyến khích những DN này sử dụng các dịch vụ của ngân hàng.

- Đối với những khách hàng mới, cần một lượng vốn lớn thì CBTD nên đánh giá khách quan mức độ rủi ro của dự án, nhằm khuyến khích DN thì ngân hàng có thể hạ lãi suất cho vay nhưng đồng thời tăng biên độ lãi suất có điều chỉnh 3 tháng, 6 tháng để tránh rủi ro có thể xảy ra.

Xây dựng chiến lược khách hàng.


- Chiến lược khách hàng là một vấn đề mang tính trọng tâm, quyết định đến kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Để công tác huy động vốn và cung ứng tín dụng hoạt động một cách có hiệu quả thì ngân hàng cần sớm có phòng chăm sóc khách hàng riêng, hoạt động chuyên sâu nhằm triển khai chính sách khách hàng một cách có hiệu quả và đi vào nề nếp.

- Với phương châm hoạt động “Khách hàng là thượng đế”, “Mọi khách hàng là bạn đồng hành”, ngân hàng phải cho khách hàng thấy được những tiện ích, quyền lợi khi họ giao dịch với ngân hàng.

3.3.4. Các giải pháp áp dụng tại DNNVV:


Bên cạnh những giải pháp, cơ chế hỗ trợ từ phía Nhà nước, NHTM, DN để có thể tồn tại và phát triển bền vững thì điều quan trọng, chủ yếu vẫn là những nỗ lực từ bản thân DN. Một thực tế hết sức bất cập đó là DNNVV thì thiếu vốn trong khi đó ngân hàng có đủ cầu để cung ứng vốn cho DN, song do những hạn chế về năng


lực tài chính, yếu kém trong công tác quản trị kinh doanh mà đa phần các DNNVV không thể tiếp cận được với nguồn vốn vay Ngân hàng. Vì thế để khai thông rào cản gây ách tắc quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với DN thì các DN phải chú ý giải quyết các vấn đề sau:

Thứ nhất: DNNVV phải có giải pháp nâng cao vốn tự có.


Hiện nay, cơ cấu vốn của nhiều DNNVV chưa hợp lý, tỷ trọng nguồn vốn đi vay từ bên ngoài, từ ngân hàng trong tổng nguồn vốn kinh doanh của các DN còn cao. Điều đó dẫn đến: DN phụ thuộc lớn vào nguồn vốn ngân hàng, vay được vốn ngân hàng thì hoạt động được, không vay được vốn ngân hàng thì không hoặc khó hoạt động. Theo nguyên lý về cơ bản cơ cấu tài chính DN cũng như thực tế DN các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, thì nguồn vốn ngân hàng trong cơ cấu nguồn vốn hoạt động của các DN chỉ mang tính bổ sung nguồn vốn thiếu hụt. Thông thường chỉ chiếm 30% trong tổng nguồn vốn. Doanh nghiệp có thể huy động, tạo lập nguồn vốn khác nguồn vốn ngân hàng như vốn tự có của chủ DN; vốn cổ phần, vốn liên doanh liên kết; vốn huy động từ nội bộ, vốn tự huy động qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu... Như vậy DN sẽ chủ động trong hoạt động và tự chịu trách nhiệm trước các rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình. Nguồn vốn tự có sẽ là cơ sở bảo lãnh cho doanh nghiệp khi vay nên khả năng tiếp cận vốn tín dụng sẽ dễ dàng hơn.

Thứ hai: Các doanh nghiệp phải xây dựng được dự án kinh doanh có hiệu quả, có tính khả thi.

Phương án, dự án khả thi là yếu tố quyết định đến việc cho vay vốn của ngân hàng. Vì vậy doanh nghiệp cần phải thực sự đưa ra được phương án có hiệu quả, có tính thuyết phục. Muốn vậy doanh nghiệp cần nâng cao khả năng lập dự án vì nhiều doanh nghiệp có cơ hội tốt, có ý tưởng nhưng không lập được dự án. Doanh nghiệp cũng cần chủ động nghiên cứu thị trường, môi trường kinh doanh, những rủi ro có thể xảy ra tạo điều kiện cho hoạt động sử dụng vốn vay ngân hàng được an toàn, hiệu quả.


Thứ ba: Đổi mới thiết bị công nghệ.


Do hạn chế về quy mô và nguồn tài chính nên đối với DNNVV vấn đề trước mắt chưa phải là công nghệ hiện đại mà phải chọn công nghệ phù hợp, công nghệ đa dụng xuất phát từ nhu cầu thị trường về sản phẩm để lựa chọn công nghệ. Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng phải quan tâm cải tiến kỹ thuật để nâng cao năng lực trong công nghệ hiện có. Các DN cần có chương trình đổi mới công nghệ để tăng năng suất lao động, tiết kiệm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm. Trong đó chú trọng áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Bên cạnh việc cải tiến kỹ thuật công nghệ cần phải đào tạo, nâng cao tay nghề của người lao động để theo kịp sự hiện đại của máy móc, nâng cao hiệu quả sử dụng máy, hạn chế hiện tượng lãng phí nguồn lực.

Thứ tư: Coi trọng phát triển nguồn nhân lực


Như đã đưa ra ở chương 1, nguồn nhân lực của DNNVV kể cả lao động và chủ doanh nghiệp phần lớn là chưa được đào tạo một cách cơ bản. Nên hạn chế về chuyên môn, kỹ thuật và quản lý. Về lâu dài, trên cơ sở chiến lược phát triển, cơ cấu ngành nghề mà xây dựng chính sách đào tạo nhân lực.

Trong điều kiện nguồn ngân sách còn hạn hẹp, cần thực hiện chính sách xã hội hoá công tác dạy nghề, có công, có tư. Nhà nước thống nhất quản lý tiêu chuẩn đào tạo, các DNNVV phải bỏ chi phí đào tạo nguồn nhân lực của mình. Đồng thời DN cần sử dụng có hiệu quả kinh phí đào tạo do các tổ chức quốc tế tài trợ thông qua các chương trình dự án.

Bên cạnh đó, một vấn đề rất quan trọng và cấp bách đối với DNNVV là vấn đề hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Đó sẽ là cơ hội vừa là thách thức đối với các DNNVV. Vì vậy các DNNVV cần tranh thủ sự giúp đỡ của các cơ quan chức năng để nắm bắt thông tin, nâng cao hiểu biết về luật lệ thương mại quốc tế, khai thác thị trường phù hợp. Chú trọng công tác đổi mới và bảo vệ quyền sở hữu trí. Cuối cùng là DN phải tự đánh giá nâng cao sức cạnh tranh của chính mình, tránh ỷ lại vào sự bảo hộ của Nhà nước.


Thứ 5: Cần xem trọng và nâng cao công tác thực hiện BCTC:


Để giúp ngân hàng có thể thẩm định tài chính thuận lợi và nâng cao sự tin tưởng đối với DN, các DNNVV cần nâng cao chất lượng công tác cung cấp số liệu tài chính cho ngân hàng. Muốn vậy, lãnh đạo DN phải là những người đầu tiên nhận thức được tầm quan trọng của công tác này bằng các biện pháp:

Các chủ DNNVV cần phải tự trang bị kiến thức về tài chính để trước tiên có thể hiểu và sau là thay đổi cách nhìn nhận trong việc lập BCTC.

Hoàn thiện bộ phận kế toán theo hướng chuyên nghiệp hóa, có đủ năng lực trình độ chuyên môn để có thể giải quyết tốt các công việc thuộc phạm vi trách nhiệm của mình như: lập các BCTC một cách chính xác trên cơ sở pháp lý, chứng từ vững vàng; tư vấn cho lãnh đạo DN trong quá trình hoạt động kinh doanh sao cho bài bản, hợp pháp. Đồng thời, bộ phận kế toán cũng cần có khả năng giải trình các thắc mắc của NHTM về số liệu BCTC một cách trôi chảy, thuyết phục.

Tuân thủ các quy định về hạch toán, kế toán thu chi trong hoạt động kinh doanh một cách minh bạch, rõ ràng. Công tác lập BCTC chỉ có thể được cải thiện nếu các số liệu đầu vào là chính xác trên cơ sở các hóa đơn, chứng từ hợp pháp. Do đó, bên cạnh sự tư vấn, hỗ trợ của bộ phận kế toàn, thì vai trò và nhận thức của lãnh đạo DN có ý nghĩa quyết định.

3.4. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ:


3.4.1. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước:


3.4.1.1. Đề nghị cơ quan quản lý Nhà nước thực hiện một số giải pháp nhằm hỗ trợ và phát triển DNNVV:

Một là: Hoàn thiện khung pháp lý cho DNNVV


Chính phủ và các ban ngành cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật để khuyến khích các DN, DN yêu cầu hoạt động kinh doanh theo đúng pháp luật. Ban hành các chính sách hỗ trợ, bảo vệ DNNVV, chính sách thuế, chính sách thương mại, đất đai...


Nhà nước cần ban hành các văn bản luật, tạo môi trường pháp lý cần thiết để các DNNVV dễ dàng thực hiện các biện pháp đảm bảo nghĩa vụ trả nợ và các ngân hàng dễ dàng trong việc xử lý tài sản đảm bảo nợ khi có rủi ro xảy ra. Đó là luật sở hữu tài sản và các văn bản dưới luật quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý Nhà nước về cấp chứng thư, sở hữu tài sản; ban hành các văn bản dưới luật hướng dẫn việc thực hiện xử lý, phát mại tài sản thế chấp, cầm cố và bảo lãnh. Có như vậy mới góp phần tạo ra sự đảm bảo chắc chắn hơn cho các NHTM và từ đó mà khuyến khích họ trong việc cho vay vốn đối với các DNNVV.

Hai là: Tạo ra một “sân chơi bình đẳng” về tín dụng trung và dài hạn để tất cả người đi vay đều tuân thủ những thể lệ giống nhau.

Những quy định hiện hành và quy tắc điều chỉnh việc tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng dài hạn và trung hạn đã có sự phân biệt đối xử với DNNVV.

Ngân hàng phải tin vào khả năng trả nợ cho người đi vay chứ không phải là ai là người sở hữu hoặc “thân phận” của người đi vay. Điều này sẽ xác định không chỉ là liệu một DN có vay được vốn hay không mà còn liệu DN có phải thế chấp hay không.

Ba là: Thành lập các Công ty cho thuê tài chính để phục vụ cho các DNNVV.


Đây sẽ là các nguồn tài trợ vốn trung và dài hạn cho các DNNVV vừa an toàn vừa hợp với khả năng nguồn lực của DNNVV. Mô hình này đã được nhiều nước áp dụng thành công.

Bốn là: Xây dựng quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNNVV


Thực trạng chung là DNNVV vốn ít, trình độ công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý hạn chế. Nhưng cũng có nhiều DN có khả năng phát triển, có dự án kinh doanh khả thi nhưng do không đủ điều kiện để tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng mà phải vay vốn các nguồn phi chính thức với lãi suất cao. Vì vậy, giải quyết vấn đề thiếu vốn là khâu đột phá nhằm khai thác mặt tích cực, hạn chế bất lợi đối với cả các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp.

Xem tất cả 129 trang.

Ngày đăng: 09/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí