Nâng cao chất lượng công tác thẩm định cho vay các Doanh nghiệp nhỏ và vừa trong hoạt động tại các Ngân hàng Thương mại trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ - 15


Theo kinh nghiệm của nhiều quốc gia, phải có sự can thiệp của Nhà nước trong việc hỗ trợ các DNNVV tiếp cận vốn tín dụng thông qua việc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng đối với DNNVV. Mục tiêu là tạo điều kiện cho DNNVV có khả năng phát triển nhưng không đủ năng lực tài chính để có thể khai thác được nguồn vốn tín dụng. Đây là biện pháp để Nhà nước chia sẻ rủi ro với người cho vay, thúc đẩy mở rộng tín dụng đối với DNNVV.

Năm là: Xây dựng các trung tâm tư vấn hỗ trợ DNNVV


Một trong những hạn chế của DNNVV là đội ngũ quản lý còn yếu kém, doanh nghiệp thiếu thông tin và khả năng tiếp cận thị trường. Vì vậy, việc thành lập các trung tâm tư vấn hỗ trợ DNNVV là hết sức cần thiết, đóng vai trò quan trọng nhằm trợ giúp DNNVV trong các lĩnh vực sau đây:

- Đào tạo nâng cao trình độ cán bộ quản lý điều hành và tay nghề người lao động: Ngoài việc tổ chức mạng lưới các cơ sở dạy nghề trong phạm vi cả nước, một việc hết sức quan trọng là tổ chức đào tạo kiến thức kinh doanh phù hợp với nền kinh tế thị trường cho đôị ngũ quản lý DNNVV. Đối với chủ DNNVV họ có nhiều kinh nghiệm sản xuất, thành đạt trong kinh doanh nhưng chưa có dịp tiếp xúc một cách có hệ thống các kiến thức mới về quản lý tài chính, về pháp luật vì vậy cần tổ chức các lớp đào tạo theo các chủ đề dành cho chủ doanh nghiệp, tổ chức các buổi giao lưu, toạ đàm cho các doanh nhân trẻ.

- Hướng dẫn xây dựng dự án, phương án kinh doanh khả thi.


Việc xây dựng dự án sản xuất kinh doanh đóng vai trò rất quan trọng cho DNNVV, giúp các DN biến một ý tưởng mới thành hoạt động kinh doanh thành công về phương diện tài chính. Nhưng việc tự mình lập phương án sản xuất kinh doanh để đệ trình với các cơ quan hữu quan là một điều hết sức khó khăn mà nhiều DNNVV không thể tự làm được. Vì vậy rất cần phải có hoạt động tư vấn về lĩnh vực này. Có như vậy các ngân hàng mới biết được mục đích sử dụng, khả năng sinh lời của dự án, từ đó mới có thể xem xét thẩm định trước khi đầu tư vốn cho DN.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

- Cung cấp thông tin thị trường, khoa học công nghệ, giới thiệu sản phẩm của doanh nghiệp ra nước ngoài: Để có thể tham gia vào thị trường trong nước và quốc tế, điều quan trọng đối với các DN là tiếp cận công nghệ hiện đại nhằm tăng cường cạnh tranh.

Sáu là: Xây dựng chính sách hỗ trợ về đào tạo, khoa học công nghệ:

Nâng cao chất lượng công tác thẩm định cho vay các Doanh nghiệp nhỏ và vừa trong hoạt động tại các Ngân hàng Thương mại trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ - 15


Nhà nước trợ giúp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ hiểu biết đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trình độ chuyên môn kỹ thuật, năng lực kinh đoanh cho chủ DN và người lao động. Đối với chủ DN, cần quan tâm bồi dưỡng, giáo dục phát huy trách nhiệm trước cộng đồng xã hội, có đạo đức kinh doanh, tôn trọng chữ tín, tự giác chấp hành chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chăm lo đời sống và điều kiện làm việc cho người lao động tại doanh nghiệp.

Phát triển các trung tâm dạy nghề của Nhà nước, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, miền núi; khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức và cá nhân trong, ngoài nước mở các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật cho DN thuộc các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân và dạy nghề cho người lao động. Xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động. Mở rộng hệ thống dịch vụ tư vấn khoa học, công nghệ cho các hộ kinh doanh và DN. Nhà nước hỗ trợ mở các lớp ngắn hạn miễn phí bồi dưỡng kiến thức khoa học, công nghệ cho hộ kinh doanh, DN; hỗ trợ các DN ứng dụng công nghệ thông tin, thuê, mua trả góp thiết bị để đổi mới công nghệ; thực hiện tốt việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; khen thưởng các cá nhân và DN áp dụng có hiệu quả công nghệ tiên tiến, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm.

Bảy là: Xây dựng chính sách hỗ trợ về thông tin, xúc tiến thương mại:


Nhà nước cần có cơ chế và phương tiện bảo đảm cho DN nhận được những thông tin cần thiết về luật pháp, chánh sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước, của các ngành, các vùng... Nhà nước khuyến khích và hỗ trợ hộ


kinh doanh, DN và các hiệp hội đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại ở cả thị trường trong và ngoài nước.

3.4.1.2. Đề nghị thiết lập một hệ thống chính sách vĩ mô đầy đủ, đồng bộ và hợp lý đi đôi với khung pháp luật hoạt động hiệu quả là vấn đề đầu tiên và cần giải quyết:

Để tạo điều kiện nhằm nâng cao hiệu quả công tác thẩm định, cùng với việc xã hội hoá đầu tư, quốc tế hoá đầu tư Chính phủ Việt Nam nên:

Nhà nước cần công bố rộng rãi quy hoạch tổng thể về phát triển kinh tế xã hội theo ngành, vùng lãnh thổ và theo từng thời kỳ. Quy hoạch này sẽ giúp cho các NHTM có cơ sở để bố trí kế hoạch tín dụng để vừa đảm bảo được nhu cầu vốn đầu tư của DN phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế, vừa đảm bảo về mặt lợi ích cho các ngân hàng

Tiến hành quy hoạch chi tiết theo chương trình các dự án đầu tư. Có sự sắp đặt lựa chọn các dự án theo không gian và thời gian. Nhà nước nên tổng hợp nghiên cứu, phân loại và xác định thứ tự ưu tiên.

Quy hoạch nguồn vốn đầu tư cân đối với các chương trình dự án. Quy hoạch này chỉ rõ khả năng vận động tiếp nhận thu hút nguồn vốn, có tác dụng hướng dẫn chủ dự án nên thực hiện bằng nguồn vốn nào.

Tiếp tục thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, các DN chủ động tạo vốn tự chịu trách nhiệm vốn trên cơ sở dự án được duyệt.

Hoàn thiện hệ thống các định mức kinh tế kỹ thuật, các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của từng ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh để làm cơ sở cho ngân hàng trong việc so sanh hiệu quả các chỉ tiêu tính toán được.

Bên cạnh đó là hoàn thiện các luật:


Hoàn thiện triển khai áp dụng Luật Ngân hàng để gắn trách nhiệm của người vay vốn với pháp luật chặt chẽ.


Hoàn thiện Luật đầu tư trong nước đã có cũng như nước ngoài.


Hoàn thiện chính sách sử dụng và quản lý đất đai trong lĩnh vực đầu tư.


Chính sách lãi suất, tỷ giá phải được sửa đổi hợp lý kịp thời, tránh mọi kẽ hở để các doanh nghiệp lợi dụng khi vay vốn.

3.4.1.3. Đề nghị các cơ quan quản lý nhà nước tiếp tục xây dựng và hoàn thiện công tác kiểm toán - kế toán:

Công tác kiểm toán - kế toán ở Việt nam còn nhiều bất cập. Hiện nay ngoài một số DN nhà nước, một số DN lớn, liên quan đến hoạt động xuất khẩu có hoạt động kế toán nghiêm túc, tuân theo quy định của nhà nước. Còn lại hầu hết các DNNVV làm kế toán sơ sài, tuỳ tiện, chủ yếu là theo hình thức ghi sổ. Do đó việc đánh giá tài chính của các DN này là rất khó khăn. Tình trạng sổ ma cũng không phải là hiếm: một quyển gốc phản ánh tình hình kinh doanh thực tế; một quyển chuyên dùng để tính với phòng thuế, một quyển để đối phó với hoạt động kiểm tra của ngân hàng. Vì vậy cán bộ thẩm định rất vất vả khó khăn trong việc kiểm tra các số liệu kế toán của doanh nghiệp khi đưa lên vay vốn.

Nhà nước cần có quy định buộc các DN phải thực hiện nghiêm túc chế độ hạch toán kế toán, tạo điều kiện cho các ngân hàng trong việc kiểm tra, giám sát tình hình của DN, qua đó có thể phòng ngừa rủi ro. Mặt khác cần đẩy mạnh hoạt động của kiểm toán nhà nước và kiểm toán độc lập trong nền kinh tế, đặc biệt là kiểm toán độc lập vì đây là nơi cung cấp thông tin cho công tác thẩm định tương đối chính xác. Để nâng cao hoạt động của kiểm toán trước hết cần có sự thống nhất giữa các công ty kiểm toán Việt Nam, tiêu chuẩn hoá các chuẩn mực kiểm toán sao cho phù hợp với những chuẩn mực quốc tế. Đặc biệt quốc hội nên có quy định các báo cáo tài chính phải được xác nhận bởi của cơ quan kiểm toán.

3.4.1.4. Đề nghị cơ quan quản lý nhà nước hoàn thiện công tác công chứng, chứng thực:


Hồ sơ vay vốn của các DN vay vốn bao rất nhiều tài liệu có liên quan, điều này đòi hỏi phải có công tác công chứng. Công chứng các giấy tờ của DN như hồ sơ pháp lý, các giấy bảo lãnh, cầm cố tài sản... của DN. Việc công chứng sát thực có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng công tác thẩm định.

Hiện nay việc đăng ký giao dịch bảo đảm của NHTM tại phòng Tài nguyên môi trường thành phố Việt Trì còn một số bất cập (cụ thể trong bản đăng ký giao dịch bảo đảm không ghi rõ giờ, ngày, tháng và nội dung đăng ký), vì vậy khi gặp rủi ro tín dụng các NHTM rất khó khăn trong việc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán theo quy định.

Có thể nói trong những năm vừa qua những rủi ro đối với ngân hàng tập trung chủ yếu vào lĩnh vực tín dụng. Sự lỏng lẻo trong các biện pháp bảo đảm an toàn tín dụng (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) đóng góp một phần không nhỏ cho những mất mát đó. Nguyên nhân ở đây là sự buông lỏng trong công tác công chứng tạo điều kiện cho cán bộ công chứng tham nhũng, nhận tiền của người đi vay vốn ngân hàng để xác nhận công chứng sai lệch về giá trị tài sản cầm cố bảo lãnh. Vì vậy đề nghị Nhà nước phải nâng cao phẩm chất cán bộ công chứng cũng như hoàn thiện công tác này sao cho DN được tạo điều kiện nhanh nhất khi đi vay vốn ngân hàng.

3.4.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước:


Sau Pháp lệnh ngân hàng năm 1990, hệ thống ngân hàng Việt Nam phân thành 2 cấp: Ngân hàng Nhà nước và Hệ thống ngân hàng thương mại. Ngân hàng Nhà nước với vai trò là người hướng dẫn điều tiết vĩ mô hoạt động ngân hàng. Hoạt động tín dụng mà trong đó có công tác thẩm định hoạt động theo các chính sách quy định của Ngân hàng Nhà nước. Vì vậy để NHTM làm tốt công tác thẩm định và nâng cao chất lượng thẩm định DN, đề nghị Ngân hàng Nhà nước thực hiện một số giải pháp sau:

Củng cố hệ thống thông tin và cung cấp thông tin:


Bên cạnh những thông tin bản thân NHTM có được, Ngân hàng Nhà nước cập nhật thường xuyên và nâng cao chất lượng thông tin, đồng thời bổ sung thêm một số thông tin cần thiết cho NHTM về khách hàng qua trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước như: lịch sử của DN, ngành nghề kinh doanh, biến động của DN như sát nhập, giải thể, thay đổi giám đốc, Tổng giám đốc, kế toán trưởng, dư nợ tại các ngân hàng khác và các mối quan hệ với các ngân hàng khác. Từ đó NHTM có thể có những thông tin chi tiết và tổng thể về khách hàng.

Bên cạnh đó Ngân hàng Nhà nước thường xuyên kiểm tra, kiểm soát chế độ cung cấp thông tin của khách hàng tại các ngân hàng theo quy chế và tổ chức hoạt động thông tin tín dụng của Thống đốc ngân hàng Nhà nước đã ban hành. Như vậy cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Ngân hàng Nhà nước và các NHTM, nhận thức công tác thông tin tín dụng là quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của các NHTM, góp phần phòng ngừa rủi ro trong toàn ngành.

Xây dựng hệ thống văn bản, quy chế thẩm định thống nhất:


Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò hướng dẫn các ngân hàng, là ngân hàng của các ngân hàng. Đối với công tác thẩm định, Ngân hàng Nhà nước có nhiệm vụ xác lập môi trường pháp lý bao gồm các văn bản quy chế hướng dẫn nghiệp vụ chi tiết, đồng thời xem xét các chính sách lãi suất, tỷ giá hối đoái... để ngày một hoàn thiện hơn các chính sách này.

Hệ thống văn bản cũng như chế độ thẩm định mà Ngân hàng Nhà nước ban hành có ảnh hưởng đến quy trình thẩm định cũng như chất lượng của công tác này. Điều này giúp quá trình thẩm định của ngân hàng được nhanh, hiệu quả, chính xác phục vụ kịp thời cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Hỗ trợ công tác đào tạo cho các cán bộ NHTM trong việc nâng cao kiến thức và nghiệp vụ chuyên môn.

Để hỗ trợ đào tạo cho các cán bộ NHTM, NHNN có thể tổ chức các khoá học định kỳ mời các chuyên gia về tài chính ngân hàng từ các nước có hệ thống tài chính phát triển hoặc từ các tổ chức tài chính như WB,IMF đến giảng dạy.


Trong quá trình đào tạo, tập huấn nên chú trọng kỹ năng thực hành bằng các chương trình phầm mền thẩm định trực tiếp trên máy tính. Bên cạnh đó, các NHTM nên cử các cán bộ đi học tập phải là những người đã có trang bị kiến thức và kinh nghiệm về thẩm định, có khả năng tiếp thu và hướng dẫn lại nghiệp vụ khi về cơ quan công tác để đào tạo, bồi dưỡng cho các cán bộ ngân hàng mình.

Tăng cường và nâng cao chất lượng công tác thanh tra, giám sát.


Công tác thanh tra, giám sát cần được đẩy mạnh nhằm kịp thời phát hiện những sai phạm trong công tác tín dụng, nhất là công tác thẩm định để hạn chế những rủi ro cho các NHTM. Tăng cường thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng, phòng chống tội phạm trong ngành ngân hàng. Đồng thời qua công các thanh tra, giám sát NHNN có văn bản cảnh báo tới các TCTD nhằm ngăn ngừa những tiềm ẩn rủi ro trong hoạt động, góp phần đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng.

Tăng cường công tác tuyên truyền hoạt động Ngân hàng.


Phối hợp với các cơ quan truyền thông tổ chức đưa tin, tuyên truyền, phổ biến rộng rãi, công khai, minh bạch, rõ ràng các thủ tục, cơ chế, chủ trương, chính sách của Đảng và Pháp luật của Nhà nước, chỉ đạo của Chính phủ và NHNN Việt Nam đến các DN. Khuyến khích, động viên các NHTM, các DN trên địa bàn tích cực hưởng ứng chủ trương, cơ chế chính sách của Nhà nước. Duy trì lập đường dây nóng để xử lý kịp thời các ý kiến, kiến nghị của DN và NHTM.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Với phương hướng mở rộng và phát triển của hệ thống ngân hàng trong thời gian sắp tới, hệ thống NHTM Việt Nam nói chung và trên địa bàn tỉnh Phú Thọ nói riêng sẽ tiếp tục mở rộng màng lưới hoạt động, quy mô tín dụng, từng bước nâng cao chất lượng tín dụng, đặc biệt đẩy mạnh cho vay đối với DNNVV.

Để hoạt động bền vững và an toàn trong bối cảnh kinh tế còn khó khăn, chứa đựng nhiều rủi ro, các NHTM cần không ngừng khắc phục các hạn chế đang


tồn tại trong công tác tín dụng của mình bằng các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thẩm định cho vay như: nâng cao năng lực trình độ chuyên môn, đạo đức của đội ngũ CB làm công tác tín dụng, tăng cường khả năng thu thập, xử lý thông tin phục vụ cho việc thẩm định và cải tiến cơ chế chính sách, quy trình, quy định theo hướng chặt chẽ, chuyên nghiệp, nhạy bén nhằm đáp ứng với yêu cầu của tình hình mới.

Bên cạnh nỗ lực tự hoàn thiện của ngân hàng, để hoạt động cho vay DNNVV đạt hiệu quả cao, hạn chế tối đa các rủi ro xảy ra, rất cần có sự thay đổi, chuyển mình về chất, nâng cao hiệu quả hoạt động hơn nữa từ phía các cơ quan, ban ngành Chính phủ và địa phương và bản thân các DNNVV.

Đối với các DNNVV, đó là sự nâng cao về trình độ chuyên môn, kiến thức quản lý của đội ngũ lãnh đạo DN để phương án được lập có tính khả thi cao, có thể thuyết phục được ngân hàng. Ngoài ra, các DN cũng cần nâng cao hiểu biết về tầm quan trọng của BCTC để tạo niềm tin cho ngân hàng và qua đó, giúp cho việc tiếp cận vốn vay được thuận lợi hơn.

Đối với các cơ quan, ban ngành chính phủ và địa phương, cần thiết phải có sự thay đổi về cơ chế, chính sách nhằm tạo ra khung pháp lý ổn định, chặt chẽ cùng với cung cấp thông tin minh bạch, nhanh chóng, đa dạng, đáng tin cậy. Có như vậy, công tác thẩm định cho vay DNNVV mới thật sự cải tiến, hoàn chỉnh và đạt hiệu quả cao.

Xem tất cả 129 trang.

Ngày đăng: 09/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí