Giáo Dục Và Giáo Dục Giá Trị Sống

hành vi thực tế của họ. Với tính cách là một khách thể xã hội, giá trị không thể tách rời khỏi những nhu cầu, những mong muốn, thái độ, những quan điểm và những hành động của con người với tư cách là một chủ thể của các quan hệ xã hội”[28].

Theo tài liệu Giáo dục giá trị” (Bộ văn hóa Thể thao Philippin), khái niệm giá trị có thể hiểu: “Một vật có giá trị khi nó được thừa nhận là có ích và mong muốn có được những thứ đó đã ảnh hưởng đến thái độ và hành vi của con người. Không chỉ có hàng hóa vật chất mà cả lý tưởng và những khái niệm đều có giá trị như: sự thật, công lý, lương thiện”[28].

Giá trị là “những niềm tin, thái độ, mục đích, cảm xúc, lý do đã được đánh giá, lựa chọn sau khi đã cân nhắc, xem xét, thử thách và thấm nhuần trong cuộc sống” (Raths 1966)[28].

Theo từ điển Tiếng Việt (NXB Khoa học xã hội), giá trị là cái mà con người dùng làm cơ sở để xem xét một vật có lợi ích đến mức nào đối với con người; cái mà con người dựa vào dùng để xem xét một người đáng quý đến mức nào về mặt đạo đức, trí tuệ, tài năng; những quan niệm và thực tại về cái đẹp, sự thật, điều thiện của xã hội; tính chất quy ra được thành tiền của một vật trong quan hệ buôn bán, đổi chác; độ lớn của một đại lượng, một lượng biến thiên. Tác giả Phạm Minh Hạc: “Giá trị là tính có nghĩa tích cực, đáng quý, có ích của các đối tượng với các chủ thể”[9]. Tác giả đã xem xét giá trị ở tính chất, ý nghĩa, có ích của cá nhân trong mối quan hệ với chủ thể. Tác giả Trần Trọng Thuỷ: “Giá trị là một hiện tượng xã hội điển hình, biểu thị các sự vật, hiện tượng, các thuộc tính và quan hệ của hiện thực, các tư tưởng chuẩn mực, mục đích, lí tưởng, các hiện tượng của tự nhiên và xã hội được con người tạo ra hoặc không được con người tạo ra, nhưng đều phục vụ cho sự tiến bộ của xã hội và phát triển cá nhân con người” [26]. Tác giả xem xét giá trị trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, biểu hiện ở sự phục vụ xã hội và con người

Tác giả Lê Đức Phúc: “Giá trị là cái có ý nghĩa đối với xã hội, tập thể và cá nhân, phản ánh mối quan hệ chủ thể - khách thể được đánh giá xuất phát từ điều kiện lịch sử, xã hội thực tế và phụ thuộc vào trình độ phát triển nhân cách. Khi đã được nhận thức, đánh giá, lựa chọn, giá trị trở nên động lực thúc đẩy con người theo một xu hướng nhất định” [17]. Tác giả đã định hướng rộng hơn những đặc điểm cần có của con người được công nhận trong mỗi một giai đoạn lịch sử. Đã đề cập đến việc giá trị tạo động lực thúc đẩy con người hành động.

Tác giả Nguyễn Công Khanh cho rằng “Giá trị là những gì con người cho là quan trọng, là có ý nghĩa đối với bản thân mình, có tác dụng định hướng cho suy nghĩ, hành động và lối sống của bản thân trong cuộc sống. Giá trị có thể là những chuẩn mực đạo đức, những chính kiến, thái độ, và thậm chí là thành kiến đối với một điều gì đó… Giá trị có thể là giá trị vật chất hoặc giá trị tinh thần, có thể thuộc các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, đạo đức, kinh tế,…” [11]

Dưới góc độ của Giáo dục học, có thể hiểu giá trị là phẩm chất tốt hay xấu, tác dụng lớn hay nhỏ của sự vật hay của con người, là cái làm cho vật được thừa nhận là có ích lợi, đáng quý, là tính ý nghĩa tích cực hay tiêu cực của khách thể đối với con người, giai cấp, nhóm xã hội nói chung, là các thuộc tính của vật chất và tinh thần có ý nghĩa đối với cuộc sống con người. Nói ngắn gọn, giá trị là chỉ độ lớn hay nhỏ, nhiều hay ít cái hữu ích của một sự vật hay hiện tượng đối với cuộc sống con người [18].

Từ những quan điểm trên ta thấy giá trị có đặc điểm như sau:

Thứ nhất: Giá trị bao hàm những hiện tượng tinh thần có khả năng thoả mãn những nhu cầu tích cực của con người và góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội.

Thứ hai: Giá trị chứa đựng các yếu tố nhận thức, tình cảm và hành vi được chủ thể lựa chọn khi tham gia vào các mối quan hệ xã hội.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 154 trang tài liệu này.

Thứ ba: Giá trị được xác định, đánh giá, kiểm nghiệm trong thực tiễn đời sống khi con người tham gia bằng hành động.

Thứ tư: Giá trị luôn mang tính lịch sử khách quan, nghĩa là sự xuất hiện, tồn tại hay mất đi của một giá trị nào đó phụ thuộc vào sự xuất hiện, tồn tại hay mất đi của một nhu cầu nào đó của con người trong môi trường sống và hoạt động.

Giáo dục giá trị sống cho học sinh trung học phổ thông ở huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang thông qua hoạt động tập thể - 4

Như vậy Giá trị là những gì con người coi là quan trọng, là cái có ý nghĩa với bản thân mình, có tác dụng định hướng cho suy nghĩ, hành động và lối sống của bản thân trong cuộc sống. Giá trị biểu hiện là những chuẩn mực về đạo đức, những chính kiến, thái độ hay thành kiến đối với điều gì đó của đời sống xã hội. Giá trị có thể là giá trị vật chất hoặc tinh thần, có thể thuộc các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, nghệ thuật, đạo đức….

1.2.1.2 Giá trị sống

Theo quan điểm của UNESCO trong chương trình giáo dục giá trị sống: “Giá trị sống là những điều chúng ta cho là quý giá, là quan trọng, là có ý nghĩa đối với cuộc sống của mỗi người”[21]. Giá trị sống mang tính cá nhân, không phải giá trị sống của mọi người là giống nhau, giá trị sống trở thành động lực để cho người ta phấn đấu nỗ lực để có được.

Theo từ điển Tiếng Việt giải nghĩa: “Giá trị sống (hay còn gọi là “giá trị cuộc sống”) là những điều mà một con người cho là tốt, là quan trọng, phải có cho bằng được và vì thế giá trị sống chi phối hành vi hướng thiện của con người”[30]. Khái niệm này cho thấy giá trị sống là những điều tốt đẹp được biểu hiện thông qua hành vi tích cực, hướng thiện của con người.

Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa, Đặng Hoàng Minh, Trần Văn Tính, Vũ Phương Liên cho rằng: “Giá trị sống là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống các quan niệm về cái thiện, cái ác trong các mối quan hệ của con người với con người. Giá trị sống về bản chất là những quy tắc, những chuẩn mực trong quan hệ xã hội, được hình thành và phát triển trong cuộc sống, được cả xã hội thừa nhận. Giá trị sống là quy tắc sống, nó có vị trí to lớn trong đời sống, và định hướng cho cuộc sống của mỗi cá nhân, điều chỉnh hành vi cho phù hợp với chuẩn mực của xã hội”[13].

Khái niệm đã đề cập đến tính hệ thống đạo đức xã hội được thừa nhận trong cuộc sống, chiếm vị trí quan trọng, có tác dụng định hướng và điều chỉnh các hành vi cá nhân. Những giá trị phổ biến của đạo đức thể hiện trong các khái niệm: thiện, ác, lẽ phải, công bằng, văn minh, lương tâm, trách nhiệm…

Theo tác giả Nguyễn Thị Tính “Giá trị sống là hệ thống các chuẩn mực, tiêu chuẩn nhằm định hướng cho việc đánh giá sự phát triển các mặt của đời sống xã hội và của mỗi cá nhân được cá nhân lựa chọn để tồn tại, phát triển”[24]. Theo tác giả thì giá trị sống vừa mang tính khách quan nhưng cũng đồng thời mang tính chủ quan vì nó phản ánh tính chủ thể của mỗi người thông qua sự lựa chọn giá trị và hành động của cá nhân đó. Khái niệm này cũng cho thấy giá trị sống là những giá trị đạo đức tốt đẹp giúp định hướng, chi phối hành vi cá nhân trong sự tồn tại và phát triển của mỗi con người.

Tác giả Nguyễn Công Khanh đã xem xét khái niệm giá trị sống theo nhận thức và hành động của cá nhân “Giá trị sống là những thứ được cá nhân nhận thức rất quan trọng, cần thiết, có ý nghĩa, luôn mong đợi. Chúng có khả năng chi phối thái độ, xúc cảm, tình cảm, hành vi của một cá nhân trong cuộc sống hàng ngày”[11]. Tác giả cũng đồng ý với quan điểm định hướng, chi phối của giá trị sống. Cái mới của tác giả là cho rằng giá trị sống được hình thành nhờ quá trình tự nhận thức và sự trải nghiệm của mỗi người qua các cung bậc cảm xúc như: thái độ, xúc cảm, tình cảm, hành vi.

Từ những quan điểm trên tác giả nhận thấy giá trị sống biểu hiện như sau:

- Giá trị sống là những thứ được cá nhân nhận thức là rất quan trọng, rất cần thiết, rất có ý nghĩa, luôn mong đợi, chúng có khả năng chi phối thái độ, xúc cảm, tình cảm, hành vi của một cá nhân trong cuộc sống hàng ngày.

- Giá trị sống của một cá nhân bao gồm: giá trị vật chất như tài sản, giá trị tỉnh thần như tri thức, sức khỏe, tình yêu thương, sự trung thực, danh dự…. mà con người cần có trong cuộc sống.

- Giá trị sống của mỗi cá nhân không hình thành tự nhiên theo kiểu lập trình được mã hóa trong gen mà nó được hình thành nhờ quá trình tự nhận thức và sự trải nghiệm của mỗi người.

Trong việc giáo dục giá trị sống cho học sinh THPT, tôi tiếp cận theo hướng nhận thức và các mức độ hành động: Giá trị sống là một hệ thống các chuẩn mực, tiêu chuẩn, quan niệm về cái thiện, cái ác được thừa nhận trong xã hội, được cá nhân lựa chọn và thể hiện trong các mối quan hệ của con người với con người trong cuộc sống. Về bản chất giá trị sống là những tiêu chuẩn, chuẩn mực trong quan hệ xã hội, được hình thành và phát triển trong cuộc sống, được cả xã hội thừa nhận. Giá trị sống bao gồm các quy tắc sống có vị trí quan trọng trong việc định hướng cá nhân điều chỉnh hành vi phù hợp với chuẩn mực của xã hội.

Cách sống của mỗi người phản ánh các giá trị sống mà người đó theo đuổi. Trong nhà trường giáo dục giá trị sống cần được thực hiện để gắn liền với giáo dục kỹ năng sống nhằm giep trồng những hành vi tích cực và thói quen tốt cho học sinh.

Giá trị sống được hình thành trong quá trình phát triển của mỗi cá nhân, bao gồm những giá trị sống cho trẻ từ 3 đến 7 tuổi; những giá trị sống cho trẻ từ 8 đến 10 tuổi; những giá trị sống dành cho tuổi trẻ trong đó giai đoạn vị thành niên (9 - 10 tuổi đến 17 - 18 tuổi) là giai đoạn có ý nghĩa nhất.

1.2.2. Giáo dục và giáo dục giá trị sống

1.2.2.1. Giáo dục

Có nhiều quan điểm về giáo dục, tuy nhiên hiện nay các nhà khoa học thường hiểu khái niệm giáo dục theo phạm vi rộng và hẹp:

Giáo dục (theo nghĩa rộng) là quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách, được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch, thông qua các hoạt động và quan hệ giữa người giáo dục và người được giáo dục nhằm truyền đạt và chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội của loài người.

Giáo dục theo nghĩa rộng bao gồm quá trình dạy học và quá trình giáo dục

(theo nghĩa hẹp)

Giáo dục (theo nghĩa hẹp) được hiểu là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể, đó là quá trình hình thành niềm tin, lý tưởng, động cơ, tình cảm, thái độ,

những nét tính cách, những hành vi, thói quen cư xử đúng đắn trong xã hội, thuộc các lĩnh vực đạo đức, lao động, tư tưởng chính trị, thẩm mỹ, vệ sinh… Chức năng trội của giáo dục (theo nghĩa hẹp) là hình thành phẩm chất đạo đức của con người.

Hoạt động là hình thức biểu hiện quan trọng nhất trong các mối quan hệ tích cực, chủ động của con người với thực tiễn xung quanh. Hoạt động là điều kiện, phương tiện và là con đường hình thành phát triển nhân cách. Hoạt động giáo dục là hoạt động chủ đạo trong hoạt động của con người

Hoạt động giáo dục được hiểu theo 2 nghĩa

- Theo nghĩa rộng: Hoạt động giáo dục là loại hình xã hội đặc thù của xã hội loài người nhằm tái sản xuất những nhu cầu và năng lực của con người để duy trì phát triển và hoàn thiện các mối quan hệ xã hội. Hoạt động giáo dục được thực hiện thông qua hệ thống các nội dung, hình thức, biện pháp tác động một cách có phương pháp, có chủ định. Nhằm mục đích hình thành và phát triển nhân cách người học trên các mặt đức, trí, thể, mỹ….

- Theo nghĩa hẹp: Hoạt động giáo dục là hoạt động của nhà giáo dục được tổ chức theo kế hoạch, chương trình nhằm hình thành nhân sinh quan, phẩm chất đạo đức, bồi dưỡng thị hiếu về thẩm mỹ và phát triển thể chất của học sinh. Hoạt động giáo dục được hình thành qua sự tác động của hệ thống sư phạm tới tư tưởng, tình cảm, lối sống của học sinh cùng kết hợp với biện pháp giáo dục gia đình và xã hội nhằm phát huy những mặt tích cực, khắc phục những tiêu cực trong suy nghĩ và hành động của học sinh.

Trong chương trình giáo dục phổ thông mới, hoạt động giáo dục được phân ra thành hai bộ phận chủ yếu: Hoạt động giáo dục theo các môn học và lĩnh vực học tập khác; Hoạt động giáo dục ngoài các môn học và lĩnh vực học tập khác như giáo dục môi trường, giáo dục dân số, giáo dục kỹ năng sóng, giá trị sóng…...

1.2.2.2. Giáo dục giá trị sống.

Giá trị sống có tính định hướng, tức là giá trị có vai trò dẫn dắt, điều chỉnh hành vi của con người. Vì vậy, định hướng giá trị sống là một yêu cầu tất yếu trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đặc biệt là trong môi trường giáo dục nhà trường. Giáo dục giá trị sống có tác dụng định hướng kĩ năng sống cho học sinh. Trong nhà trường THPT, giáo dục giá trị sống được tiếp cận theo nghĩa hẹp dưới góc độ của lý luận giáo dục nhà trường.

Tổ chức UNESCO đã nhấn mạnh trong báo cáo “Learning:The treasure within” (dịch là Học tập: kho báu ở bên trong): “Khi phải đối mặt với rất nhiều thử thách của tương lai, nhân loại nhìn thấy trong giáo dục một tài sản không tách rời, thiết yếu trong nỗ lực đạt tới những lý tưởng về hòa bình, tự do và công bằng xã hội”[18, tr.16]. Quan điểm trên đã nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục là con đường cơ bản để thế hệ trẻ tạo dựng cuộc sống tự do hạnh phúc một cách bền vững. Thực vậy nếu trong quá trình giáo dục, học sinh được định hướng hình thành và tôn vinh các giá trị đích thực của mình thì các em sẽ có một nhân cách phát triển bền vững, có khả năng thích ứng và ứng phó với sự biến động của xã hội.

Viết về giáo dục giá trị nói chung, tác giả Phan Thanh Long định nghĩa: “Giáo dục giá trị là quá trình nhà giáo dục tổ chức, hướng dẫn, điều khiển, định hướng, kích thích hoạt động tự giác, tích cực và chủ động của người được giáo dục; qua đó giúp họ lĩnh hội được các giá trị xã hội, hình thành nên hệ thống giá trị của cá nhân phù hợp với mong đợi của xã hội” [6, tr.138].

Trong nhà trường THPT, giáo dục giá trị sống được tiếp cận theo nghĩa hẹp dưới góc độ của lý luận giáo dục nhà trường. Theo tác giả Nguyễn Thị Tính: “Giáo dục giá trị sống là một quá trình dưới vai trò chủ đạo của giáo viên nhằm giúp học sinh hiểu được giá trị sống của mỗi con người, của chính mình, của xã hội từ đó có trách nhiệm với bản thân, gia đình,với cộng đồng, xã hội. Giáo dục giá trị sống tạo ra sự thống nhất giữa: nhận thức - thái độ - hành vi trong mỗi người, đối với từng giá trị [24, tr.25]. Tác giả đã đề cao vai trò của giáo dục giá trị sống trong việc định hướng rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Trong trường học, việc giáo dục giá trị sống đó là một quá trình giúp người học ý thức được giá trị cá nhân gắn bó chặt chẽ với cộng đồng xã hội; hình thành, phát triển và thể hiện được hệ giá trị của bản thân thông qua hoạt động học tập, lao động, hoạt động xã hội; phân biệt được các giá trị sống, đánh giá đúng giá trị của bản thân và của người khác, từ đó định hướng kĩ năng, hành vi sống cho phù hợp.

Trong đề tài này tác giả xin được tiếp cận khái niệm giáo dục giá trị sống và dưới sự tác động của các hoạt động giáo dục theo nghĩa hẹp như sau: “Giáo dục giá trị sống là một quá trình tổ chức hướng dẫn của nhà giáo dục một cách có mục đích có kế hoạch nhằm phát huy tính tích cực chủ động của người học trong việc lựa chọn và thể hiện những chuẩn mực, tiêu chuẩn trong các mối quan hệ của con người với con người trong cuộc sống. Giáo dục giá trị sống tạo ra sự thống nhất giữa nhận

thức - thái độ - hành vi trong việc làm chủ bản thân, ứng xử tích cực với người xung quanh và giải quyết có hiệu quả các tình huống có vấn đề trong cuộc sống”.

Khái niệm này làm rõ 3 vấn đề:

- Thứ nhất: Giáo dục giá trị sống cũng như giáo dục một vấn đề nào đó được tổ chức dưới vai trò hướng dẫn chủ đạo của nhà giáo dục, người học tích cực chủ động tham gia vào quá trình giáo dục đó. Những hành động được tổ chức dưới sự hướng dẫn của nhà giáo dục thì học sinh có cơ hội thử - sai - điều chỉnh - thử - đúng và hình thành thói quen trong thực tiễn cuộc sống.

- Thứ hai: Mục đích của giáo dục giá trị sống là trang bị cho người học khả năng lựa chọn những chuẩn mực, tiêu chuẩn trong xã hội mà cá nhân đang sống. Khả năng ở đây là việc tích lũy tri thức, hình thành thái độ và thể hiện xúc cảm, tình cảm dẫn đến hành vi phù hợp với yêu cầu xã hội.

- Thứ ba: Giáo dục giá trị sống trong nhà trường gắn với việc rèn luyện kỹ năng, đó là quá trình tổ chức cho người học trên cơ sở những giá trị cuộc sống mà rèn luyện, trải nghiệm những kỹ năng thông qua hành động làm chủ bản thân, ứng xử tích cực với những người xung quanh và giải quyết được các tình huống có vấn đề trong thực tiễn.

1.2.3. Hoạt động tập thể

1.2.3.1. Về hoạt động trải nghiệm sáng tạo

Trong chương trình giáo dục phổ thông hiện nay đã phân chia 2 hoạt động giáo dục chính đó là hoạt động dạy học các môn khoa học và hoạt động trải nghiệm sáng tạo.

Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục trong đó từng học sinh được trực tiếp hoạt động thực tiễn trong nhà trường hoặc trong xã hội dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, qua đó phát triển tình cảm, đạo đức, các kỹ năng và tích luỹ kinh nghiệm riêng của cá nhân. Trải nghiệm sáng tạo là hoạt động được coi trọng trong từng môn học; đồng thời trong kế hoạch giáo dục cũng bố trí các hoạt động trải nghiệm sáng tạo riêng, mỗi hoạt động này mang tính tổng hợp của nhiều lĩnh vực giáo dục, kiến thức, kỹ năng khác nhau.

Hoaṭ đôṇ g trải nghiêm

sáng tao

dành cho tất cả hoc

sinh từ ́ p 1 đến lớ p 12 giúp

hoc

sinh vân

duṇ g những tri thứ c, kiến thứ c, kỹ năng, thái độ đã hoc

̀ nhà trườ ng va

những kinh nghiêm

của bản thân vào thưc

tiễn cuôc

sống một cách sáng tạo.

Bên cạnh việc hình thành và phát triển các phẩm chất và năng lưc

chung của

chương trình giáo dục, hoat

đông trải nghiêm

sáng tao

còn tâp

trung hình thành, phát

triển các năng lực đặc thù cho học sinh: Năng lưc

tổ chứ c hoạt đông, năng lưc

tổ chức

và quản lý cuộc sống, năng lực tự nhận thức và tích cực hoá bản thân, năng lưc đinh

hướng và lưa

chon

nghề nghiêp.

Nội dung hoạt động trải nghiệm sáng tạo gồm phần bắt buôc

(bao gồm cả các

hoạt động tập thể) và tự chọn (TC3), được thiết kế theo nguyên tắc tích hơp, hoặc

đồng tâm kết hơp

́i tuyến tính. Nội dung hoat

đôṇ g trải nghiêm

sáng tạo đươc

xây

dựng thành các chủ đề mang tính chất mở và tương đối độc lập với nhau dựa trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế, sản xuất, khoa học công nghệ, giáo dục, văn hoá, chính tri ̣ xã hôi,... của địa phương, vùng miền, đất nước và quốc tế để học sinh và nhà trường lựa chọn, tổ chức thực hiện một cách phù hợp, hiệu quả.

1.2.3.2. Về hoạt động tập thể

Là một hoạt động bắt buộc của hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh. Tác giả Hà Nhật Thăng cho rằng: “Trước hết cần hiểu “hoạt động tập thể" là một hoạt động giáo dục. “Hoạt động tập thể" là một thuật ngữ trong giáo dục gồm hai khái niệm ghép đó là “hoạt động" và “tập thể". “Hoạt động" trong khái niệm “hoạt động tập thể" vừa là động từ, nghĩa là sự vận động (không đứng yên) nhưng đặt trong “tập thể" nghĩa là sự vận động đó có mục tiêu chung của nhiều người nhằm cùng đạt tới một mục đích, trong một lĩnh vục cụ thể. “Hoạt động tập thế” là sự vận động, hành động chung của nhiều người (tập thể) có liên kểt, gắn bó với nhau tuân theo những nguyên tắc thống nhất rõ ràng nghĩa vụ, quyền hạn, quyền lợi nhằm phát huy tài năng của mọi người để thực hiện mục đích chung, những nhiệm vụ và công việc chung phù hợp với yêu cầu của GD xã hội và góp phần cho mỗi thành viên có cơ hội phát triển cách” [23].

Theo quan điểm giáo dục học, có thể thấy hoạt động là biểu hiện quan trọng nhất trong mối quan hệ tích cực, chủ động của con người đối với thực tiễn xung quanh. Trong từng khía cạnh của thực tiễn, hoạt động là một quá trình diễn ra một loạt các hành động có liên quan chặt chẽ với nhau tác động vào đối tượng nhằm đạt được mục đích nhất định. Hoạt động của con người luôn xuất phát từ những động cơ nhất định, do sự chi phối, thôi thúc của nhu cầu, hứng thú, tình cảm, trách nhiệm. Ngoài ra hoạt động có đặc trưng là được tiến hành bằng cách sử dụng các công cụ, phương tiện một cách thuần thục nhất nghĩa là người hoạt động phải có kỹ năng tổ chức và sử dụng công cụ, phương tiện đó.

Xem tất cả 154 trang.

Ngày đăng: 21/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí