CHƯƠNG BA
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH PHÚ QUỐC ĐẾN NĂM 2020.
3.1. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN.
3.1.1 Quan điểm phát triển.
Đề án phát triển tổng thể đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang đến năm 2010 và tầm nhìn đến 2020 đã xác định:
- Tập trung sức xây dựng và phát triển Phú Quốc theo một kế hoạch và bước đi thích hợp thành trung tâm du lịch – nghỉ dưỡng, giao thông quốc tế lớn, hiện đại của vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, phía Tây –Nam của đất nước và từng bước hình thành một trung tâm du lịch, giao thông mang tầm cở khu vực và quốc tế.
- Phát triển đảo Phú Quốc phải gắn với yêu cầu bảo đảm quốc phòng, an ninh của đảo và cả nước.
- Phát triển Phú Quốc phải gắn chặt chẽ với vùng Đồng bằng sông Cửu Long, thành phố Hồ Chí Minh và trong mối quan hệ với khu vực Đông Nam Á.
- Tập trung ưu tiên phát triển mạnh du lịch và từng bước phát triển du lịch chất lượng cao theo quy hoạch; đồng thời thúc đẩy các ngành dịch vụ phát triển nhằm đáp ứng yêu cầu phát huy thế mạnh của đảo.
Có thể bạn quan tâm!
- Tình Hình Phát Trển Du Lịch Phú Quốc Từ Năm 2000 Đến Nay.
- Tình Hình Thu Hút Đầu Tư Và Tình Hình Triển Khai Đầu Tư Các Dự Án.
- Đánh Giá Của Du Khách Về Thực Trạng Của Các Yếu Tố Sản Phẩm Du Lịch Phú Quốc.
- Đầu Tư Và Thu Hút Vốn Đầu Tư Cho Du Lịch Phú Quốc.
- Hoàn Thiện Hệ Thống Tổ Chức Quản Lý Về Du Lịch.
- Một số giải pháp phát triển du lịch Phú Quốc đến năm 2020 - 12
Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.
Về nội dung phát triển Phú Quốc quyết định 178/QĐ-TTg cũng đã xác định các tính chất phát triển của Phú Quốc là phát triển đa ngành mà trọng tâm là du lịch:
- Tập trung xây dựng Phú Quốc thành trung tâm du lịch, trước hết và chủ yếu là du lịch sinh thái biển – đảo chất lượng cao.
- Phát triển ngành dịch vụ như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, thông tin liên lạc, hàng không, thương mại, y tế, thể thao, giải trí,…vừa đảm bảo đủ điều
kiện thực hiện các mục tiêu phát triển của đảo, đồng thời chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoá.
- Phát triển lâm nghiệp – nông nghiệp theo hướng đa dạng sinh học, tạo cảnh quan, môi trường phục vụ phát triển du lịch, đáp ứng một phần nhu cầu dân sinh tại chỗ và khách vãng lai.
- Phát triển thủy sản kết hợp phục vụ du lịch.
- Phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp với các ngành công nghiệp sạch, giải quyết việc làm và sản xuất hàng hóa phục vụ khách du lịch không gây ô nhiểm, không xâm hại đến môi trường du lịch đảo.
- Phát triển kết cấu hạ tầng theo hướng hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội huyện đảo mà trọng tâm là phục vụ tốt phát triển du lịch và đảm bảo an ninh, quốc phòng.
- Phát triển công viên cây xanh, phát triển một số công viên văn hóa thể thao, vui chơi giải trí, vừa đảm bảo yêu cầu sinh thái vừa đảm bảo phục vụ khách du lịch.
3.1.2. Mục tiêu phát triển
3.1.2.1 Mục tiêu chung:
Phấn đấu đến năm 2020 phát triển đảo Phú Quốc thành trung tâm du lịch, nghỉ dưỡng, giao thương quốc tế lớn, hiện đại, chất lượng cao, tầm cỡ các quốc gia trong khu vực và thế giới, làm động lực thúc đẩy phát triển du lịch cả nước, đưa du lịch trở thành ngành kinh tế chủ đạo của đảo Phú Quốc, gắn với yêu cầu bảo đảm an ninh, quốc phòng.
3.1.2.2 Mục tiêu cụ thể:
Phấn đấu đạt các mục tiêu như sau:
- Về khách du lịch:
+ Năm 2010 đạt khoảng 0,3 - 0,4 triệu lượt khách du lịch/năm. Trong đó, khách du lịch quốc tế chiếm khoảng 30%.
+ Năm 2015 đạt khoảng 1 - 1,2 triệu lượt khách du lịch/năm. Trong đó, khách du lịch quốc tế chiếm khoảng 30 - 35%.
+ Năm 2020 đạt khoảng 2 - 3 triệu lượt khách du lịch/năm. Trong đó, khách du lịch quốc tế chiếm khoảng 35 - 40%.
- Về thu nhập từ du lịch:
+ Năm 2010 đạt khoảng 45 triệu USD. Trong đó, từ khách du lịch quốc tế là 25 triệu USD, từ khách du lịch nội địa là 20 triệu USD.
+ Năm 2015 đạt khoảng 209 triệu USD. Trong đó, từ khách du lịch quốc tế là 129 triệu USD, từ khách du lịch nội địa là 80 triệu USD.
+ Năm 2020 đạt khoảng 771 triệu USD. Trong đó, từ khách du lịch quốc tế là 478 triệu USD, từ khách du lịch nội địa là 293 triệu USD.
- Về cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch:
Năm 2010 có khoảng 3.500 buồng lưu trú (trong đó số phòng đạt tiêu chuẩn từ 3 - 5 sao chiếm khoảng 30 - 35%), năm 2015 là 8.200 buồng lưu trú (trong đó số phòng đạt tiêu chuẩn từ 3 - 5 sao chiếm khoảng 55 - 60%), và 18.000 buồng lưu trú vào năm 2020 (trong đó số phòng đạt tiêu chuẩn từ 3 - 5 sao chiếm khoảng 60 - 70%).
- Về lao động và việc làm:
Năm 2010 có khoảng 7.000 lao động trực tiếp và 15.400 lao động gián tiếp trong ngành du lịch, số lao động tương ứng cho năm 2015 là 16.400 và 36.100 và năm 2020 là 36.000 và 79.200.
3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH PHÚ QUỐC
3.2.1. Mở rộng thị trường và tăng cường các hoạt động marketing cho du lịch Phú Quốc.
Mở rộng thị trường và tăng cường các hoạt động marketing là giải pháp quan trọng nhằm phát triển du lịch Phú Quốc, để thực hiện giải pháp này cần chú ý các biện pháp sau đây:
Một là, xác định nhu cầu khách hàng, khai thác khách từ các thị trường quốc tế và đặc biệt coi trọng thị trường du lịch nội địa.
Trên cơ sở những thế mạnh hiện có về cơ sở vật chất, về tài chính, về kinh nghiệm quản lý, trước hết cần phải tiến hành xác định nhu cầu khách hàng và phân khúc thị trường nhằm xác định thị trường mục tiêu. Đây là một nội dung quan trọng của việc xây dựng chiến lược cạnh tranh bởi vì nó cho phép xác định phạm vi cạnh tranh của doanh nghiệp. Đồng thời, định hướng cho doanh nghiệp nên tập trung lợi thế cạnh tranh nào hoặc khắc phục những yếu kém nào của mình để đáp ứng tốt nhất yêu cầu của thị trường mục tiêu. Căn cứ vào nhu cầu của từng phân khúc, vào khả năng của doanh nghiệp cũng như mức độ cạnh tranh trong từng phân khúc để có sự lựa chọn thích hợp.
Biện pháp này được thực hiện bằng việc mở rộng thị trường ở khu vực Đông Á - Thái Bình Dương, Tây Âu, chú trọng các thị trường ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Pháp, Anh, kết hợp khai thác các thị trường ở Bắc Á, Úc, New Zealand, các nước SNG và Đông Âu.
Chú trọng phát triển và khai thác thị trường du lịch nội địa, phát huy tốt nhất lợi thế phát triển du lịch từng địa phương, đáp ứng yêu cầu giao lưu, hội nhập và phù hợp với quy định của Nhà nước. Tạo điều kiện cho nhân dân đi du lịch trong nước và ngoài nước, góp phần nâng cao dân trí, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Việc xác định thị trường mục tiêu, nhu cầu khách du lịch cộng với việc cân đối khả năng đáp ứng của doanh nghiệp cho phép doanh nghiệp thiết kế được những sản phẩm du lịch phù hợp với sở thích, thị hiếu của từng đối tượng khách du lịch cũng như tận dụng được những thế mạnh hiện có của đơn vị.
Hai là, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch.
Trong xu thế toàn cầu hóa như hiện nay, cơ cấu và tính chất của thị trường sẽ có những thay đổi khá nhiều so với thị trường truyền thống trước đây. Đặc điểm nổi bật có thể thấy ngay là một thị trường có sự cạnh tranh vô cùng gay gắt và luôn luôn biến đổi. Do đó doanh nghiệp muốn duy trì và đạt được hiệu quả thì phải đáp ứng được sở thích của người tiêu dùng một cách nhanh nhất và phải làm
sao cho người tiêu dùng nhận ra sản phẩm của mình có sự khác biệt trong vô số những sản phẩm cùng loại, trên cơ sở có chất lượng cao và giá thành hợp lý. Đây là biện pháp rất quan trọng mà doanh nghiệp cần phải chú tâm vào, việc tạo được sự khác biệt được xem là tiêu chí hàng đầu hiện nay đối với một sản phẩm thành công.
Hay nói cách khác, để tồn tại trong môi trường cạnh tranh, doanh nghiệp phải tạo ra được lợi thế cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh được thể hiện dưới hai hình thức cơ bản chi phí thấp hoặc khác biệt hóa. Có ba hình thức khác biệt hóa sản phẩm du lịch:
- Phát triển các sản phẩm du lịch thật cao cấp theo hướng đáp ứng hầu hết các nhu cầu của khách du lịch với chất lượng cao nhất, nhanh nhất và đúng lúc.
- Tạo nên các sản phẩm thật độc đáo làm cho khách du lịch cảm nhận được sự khác biệt giữa Phú Quốc- Kiên Giang với các vùng khác, các nước khác. Các đơn vị lữ hành thông qua việc tổ chức các cuộc du ngoạn vào rừng nguyên sinh, hay trên biển, cho du khách thưởng ngoạn các tập quán truyền thống,... cộng với việc tổ chức phục vụ chu đáo và các dịch vụ ăn, ở, giải trí đáp ứng yêu cầu của từng đối tượng khách.
- Tạo các sản phẩm du lịch chuyên đề như du lịch kết hợp hội thảo, sự kiện (MICE : Meeting Incentive Conference Event), du lịch bồi dưỡng sức khỏe, du lịch kết hợp chữa bệnh, du lịch hang động, du lịch chơi golf; thể thao câu cá, sông nước. Du lịch cho những người ham thích mỹ nghệ, làng nghề truyền thống, sinh hoạt cảnh lễ hội, sinh hoạt văn hóa truyền thống dân tộc,...
Du lịch Phú Quốc muốn thực hiện biện pháp trên cần phải từng bước đa dạng hoá sản phẩm du lịch có chất lượng cao, cần đẩy mạnh việc đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch, tôn tạo các danh lam thắng cảnh, các di tích văn hóa, phát triển khu vui chơi giải trí, đặc biệt là casino, cần có chính sách kêu gọi nhà đầu tư lớn có kinh nghiệm, vốn để đầu tư một khu du lịch tổng hợp mà đặc biệt trọng tâm là Casino; quy hoạch một số khu du lịch có trò chơi trúng thưởng; tạo lập nhiều khu ẩm thực tại các điểm du lịch có sẵn mang bản sắc địa phương và dân tộc. Quy hoạch tập trung các cơ sở chế biến nước mắm, nâng dần chất
lượng và cải tạo cơ sở sạch đẹp, tạo thành những điểm tham quan hấp dẫn đối với du khách có nhu cầu tham quan, mua sắm sản phẩm địa phương; phát triển công nghiệp chế biến hàng thủ công mỹ nghệ có chất lượng cao,… góp phần tạo sản phẩm mới hấp dẫn du khách. Cần quy hoạch và xây dựng một số làng nghề truyền thống như làng cá, làng chài; phát triển các loại hình như trung tâm thương mại – dịch vụ cấp tỉnh; siêu thị, quy hoạch phát triển loại hình chợ để góp phần phong phú thêm tài nguyên sản phẩm du lịch.
Để thực hiện giải pháp này một cách có hiệu quả, cần tập trung giải quyết các vấn đề sau:
Về cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ du lịch.
- Tập trung đầu tư trước hết là cơ sở hạ tầng chính yếu như đường Dương Đông – Cửa Cạn, Dương Đông – Bãi Thơm, đường trục chính ven biển bãi Trường từ An Thới đến thị trấn Dương Đông, nếu tuyến đường này được đầu tư sớm sẽ thúc đẩy nhanh các dự án đầu tư tại khu vực bãi Trường, tạo tiền đề cho các khu du lịch sau ở các khu vực trên đảo; bên cạnh đó cũng cần đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng sân bay quốc tế Dương Tơ 890 ha, phấn đấu làm sao đến năm 2015 đưa sân bay vào hoạt động;
- Xây dựng một số khu tái định cư ở một số khu vực trên toàn đảo như: khu tái định cư Suối Lớn, Đường Bào nhằm giải quyết nhanh việc di dời, bố trí khu đất tái định cư cho các hộ dân bị giải tỏa trong khu vực sân bay Dương Tơ và khu du lịch ven biển bắc nam bãi Trường; khu dân cư, tái định cư Cửa Cạn, xã Cửa Cạn, để giải quyết cho các hộ dân bị giải toả nằm trong khu đất đầu tư sân golf của Tổng công ty du lịch Sài Gòn và các dự án khu vực bắc bãi Cửa Cạn;
- Kêu gọi các nhà đầu tư đầu tư hình thức trực tiếp hoặc BOT để đầu tư xây dựng các hồ nước giải quyết kịp thời nhu cầu tiêu dùng nước ở các khu du lịch, trước nhất là hồ Suối Lớn. Hồ Suối Lớn với trữ lượng khoảng 1,5 triệu m3 sẽ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ nước cho khu vực sân bay, khu du lịch và dân cư nam bắc bãi Trường;
- Kêu gọi đầu tư trong và ngoài nước đầu tư đuờng điện từ đất liền ra đảo theo các hình thức như BOT, BT, BOO.
Để đa dạng hoá sản phẩm du lịch, cần chú ý các công việc như :
- Đối với các dự án đầu tư khu du lịch đã được cấp phép tại các khu như Bà Kèo – Cửa Lấp, sân golf Cửa Cạn, địa phương nên đốc thúc nhà đầu tư đẩy nhanh tiến độ, bởi khi các khu du lịch này đi vào hoạt động sẽ làm tăng sản phẩm du lịch cả về chất lượng lẫn số lượng.
- Cấp phép nhanh và hỗ trợ nhà đầu tư thủ tục đầu tư các dự án đầu tư vào một số khu vực trọng tâm, mà các khu vực này khi đã hình thành sẽ là bàn đạp để xây dựng các khu khác, đó là: khu du lịch nam bắc bãi Trường. Nơi đây được quy hoạch thành trung tâm du lịch thương mại lớn của Phú Quốc, với vị trí gần sân bay quốc tế Dương Tơ, gần thị trấn Dương Đông và An Thới, khu vực bãi Trường sẽ là một trong những khu vực năng động nhất, tập trung nhiều sản phẩm du lịch nhất như du lịch tắm biển, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái, câu cá, câu mực, lặn ngắm san hô, lướt sóng, chèo thuyền,…
- Quy hoạch nhanh các khu vực như bãi Sao, bãi Đất Đỏ, bãi Khem. Các bãi này đặc biệt đẹp, nơi đây được quy hoạch thành khu du lịch cao cấp nhất với các khách sạn theo tiêu chuẩn pressident villa để kêu gọi những nhà đầu tư nước ngoài lớn có đủ năng lực và chuyên môn để đầu tư.
Ba là, xây dựng chiến lược giá hợp lý.
Bên cạnh việc xác định thị trường mục tiêu và nhu cầu khách hàng để xây dựng sản phẩm du lịch cho phù hợp, chiến lược giá cũng phải được quan tâm đúng mức. Giá cả phải luôn được xác định theo định hướng thị trường. Khi quyết định giá, cần phải lưu ý các loại chi phí cho chuyến đi, mục đích chuyến đi, khả năng chi trả của khách cũng như sự hiểu biết về giá cả của khách và sự cạnh tranh với các đối thủ khác. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng tính hấp dẫn của một điểm du lịch phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác hơn là giá. Đặc biệt giá tour là tổng hợp sản phẩm và dịch vụ của nhiều ngành, cho nên để có thể điều chỉnh giá phù hợp với từng thời kỳ, cần phải có sự phối hợp với các ngành khác có liên quan, chủ yếu là ngành hàng không và sự quan tâm của chính phủ.
Bên cạnh chiến lược giá, phương thức thanh toán cũng là một vấn đề khó khăn hiện nay. Do điều kiện thông tin liên lạc ngày càng phát triển, việc bán
tour, bán phòng qua mạng internet ngày càng phổ biến. Những thủ tục thanh toán đối với phương thức bán này còn gặp nhiều trở ngại do chưa có đủ hành lang pháp lý liên quan. Vì vậy, làm hạn chế rất nhiều trong việc thu hút đối với du khách qua hệ thống mạng internet ngày càng phổ biến như hiện nay.
Việc xây dựng chiến lược giá cho phép doanh nghiệp chủ động trong cạnh tranh, giảm thiểu thiệt hại do bị ép giá trong những mùa thấp điểm và do phải từ chối khách trong những mùa cao điểm.
Bốn là, hoàn thiện các kênh phân phối.
Các kênh phân phối không chỉ đóng vai trò là người trung gian giữa điểm du lịch và khách du lịch mà còn là các nhà tư vấn du lịch và có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến hình ảnh của điểm du lịch. Vì vậy, việc tổ chức các kênh phân phối hợp lý được xem là một lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
Hiện nay, các doanh nghiệp ngành du lịch Phú Quốc thường áp dụng chính sách như sau: đối với thị trường khách lẻ, tour thường được bán trực tiếp cho khách dưới các hình thức đặt hàng qua các văn phòng, đại lý, tiếp xúc trực tiếp điện thoại, fax, e-mail, mạng. Đối với khách đoàn, hầu hết đều bán tour thông qua các công ty lữ hành. Đối với khách nội địa, tour được bán cho khách hàng chủ yếu thông qua các đại lý. Các doanh nghiệp này thường rất bị động trong việc cung cấp thông tin trực tiếp cho các thị trường mục tiêu, trọng điểm. Hầu hết các đơn vị cũng bắt đầu thấy được tầm quan trọng của việc quảng bá thông qua các kỳ hội chợ du lịch. Tuy nhiên, kết quả qua các kỳ hội chợ này cũng rất thấp vì thiếu công tác chuẩn bị và thiếu kinh nghiệm quảng bá và kinh doanh quốc tế. Chưa chủ động cung cấp các tư liệu thông tin về tuyến điểm, các tài liệu quảng cáo giới thiệu sản phẩm mới để giúp các kênh phân phối này bán sản phẩm được tốt hơn, hoặc không hợp tác chặt chẽ với các Sứ quán Việt Nam và các nước để quảng bá sản phẩm. Nếu các doanh nghiệp chú trọng các vấn đề như đã nêu thì rất có lợi trong việc quảng bá thương hiệu cũng như giới thiệu sản phẩm đến khách hàng mục tiêu.
Trong các kênh phân phối trên, các công ty lữ hành chiếm tỷ trọng lớn nhất. Vì vậy để giảm áp lực từ các đơn vị phân phối trung gian cũng như để có