TNDL là hết sức cần thiết. Quan điểm này sẽ giúp luận văn xác định quy luật, hướng phát triển và khai thác tài nguyên.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu
Từ các nguồn khác nhau, tài liệu được thu thập và thao tác xử lí trong phòng. Là phương pháp được sử dụng để nghiên cứu những đối tượng có mối quan hệ đa chiều, biến động trong không gian và thời gian, do đó rất thích hợp với việc nghiên cứu du lịch. Phương pháp này cho phép tác giả tổng quan các tài liệu, kế thừa những nghiên cứu trước đó và có cơ sở để đưa ra những nhận định và kết quả của công trình. Đây là thao tác quan trọng bởi nếu không được thực hiện một cách thận trọng và nghiêm túc thì có khả năng sai lệch làm ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu, đến tính chính xác và tính khoa học của công trình.
Trong quá trình thực hiện luận văn này, tài liệu được thu thập từ rất nhiều nguồn khác nhau của cơ quan du lịch Lào.
4.2.2. Phương pháp phân tích số liệu thống kê
Đây là phương pháp thích hợp được sử dụng để thống kê các chỉ tiêu có tính định lượng như: số lượng khách, doanh thu, vốn đầu tư… Từ những số liệu có tính định lượng như trên, tác giả tiến hành phân tích, so sánh và rút ra kết luận mang tính định tính. Mục đích cuối cùng của những phân tích định lượng là rút ra các kết quả định tính.
4.2.3. Phương pháp bản đồ - biểu đồ
Bản đồ - biểu đồ là phương pháp thể hiện trực quan, sinh động nhất các đối tượng nghiên cứu của Địa lý nói chung và Địa lý du lịch nói riêng. Bằng ngôn ngữ kí hiệu, bản đồ mô phỏng hình ảnh thu nhỏ một cách trung thực nhất các đối tượng nghiên cứu Địa lý du lịch với sự phân bố về bề mặt không gian lãnh thổ cũng như một số mặt về định lượng và định tính của đối tượng. Kết hợp với bản đồ là biểu đồ chỉ ra xu hướng phát triển của hiện tượng hoặc các dạng biểu đồ so sánh với không gian nhất định.
4.2.4. Phương pháp chuyên gia
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển du lịch của thành phố Viêng Chăn Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào - 1
- Phát triển du lịch của thành phố Viêng Chăn Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào - 2
- Những Nhân Tố Ảnh Hưởng Tới Sự Phát Triển Du Lịch
- Tiềm Năng Phát Triển Du Lịch Của Nước Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào
- Số Lượng Khách Du Lịch, Thu Nhập Và Thời Gian Nghỉ Đêm Từ Năm 2011 - 2020
Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.
Ngoài các phương pháp trên thì phương pháp chuyên gia cũng đóng vai trò quan trọng, trong quá trình nghiên cứu đề tài, du lịch thuộc hai lĩnh vực KT-XH đan xen, có liên hệ với nhau và có tác động ảnh hưởng qua lại. Vì vậy, người nghiên cứu muốn đảm bảo cho các đánh giá khách quan, thực tế cần phải có sự tham gia đóng góp ý kiến và kinh nghiệm của các chuyên gia thuộc các ngành khác nhau và kinh nghiệm của chuyên gia đã đúc kết.
4.2.5. Phương pháp thực địa
Đây là phương pháp nghiên cứu nhằm góp phần làm cho kết quả mang tính xác thực, khắc phục hiệu quả những hạn chế của phương pháp thu thập, xử lí số liệu trong phòng. Các hoạt động chính khi tiến hành phương pháp này bao gồm: quan sát, mô tả, điều tra, ghi chép, chụp ảnh, phỏng vấn,… tại các điểm nghiên cứu; gặp gỡ, trao đổi với các cơ quan quản lí tài nguyên, các cơ quan quản lí chuyên ngành của địa phương….
4.2.6. Phương pháp SWOT
SWOT là công cụ/phương pháp phân tích những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức (trong tiếng Anh được viết tắt từ: Strengths, Weaknesses, Opportunities và Threats). Đây là một khung lập kế hoạch mà thông qua đó các cộng đồng có thể nêu lên những ưu tiên, xác định mối quan tâm về du lịch như là một trong những hoạt động triển vọng cho việc tạo thu nhập, sự sẵn sàng của cộng đồng cho việc phát triển và họ có thể thể hiện những lo lắng về việc phát triển du lịch. Đây là một bước hữu ích nhất trước khi bước vào đánh giá chi tiết.
4.2.7. Phương pháp dự báo
Dựa vào tính thống nhất của hệ thống, trên cơ sở đánh giá những tiềm năng và phân tích tư liệu hiện tại về xu hướng phát triển DL thế giới, ngành kinh tế DL của Lào và thành phố Viêng Chăn, có thể dự báo xu hướng phát triển DL trong tương lai của địa phương. Việc dự báo sẽ góp phần đưa ra những định hướng và giải pháp mang tính chiến lược để phát triển DL thành phố Viêng Chăn trong thời kì hội nhập.
5. Những đóng góp của luận văn
- Tổng quan có chọn lọc về cơ sở lí luận và thực tiễn về phát triển du lịch.
- Phân tích tiềm năng, các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch thành phố Viêng Chăn, đặc biệt là trong mối liên kết vùng và các khu vực phụ cận.
- Đánh giá bức tranh tổng thể hoạt động du lịch của thành phố Viêng Chăn ở góc độ địa lý học. Từ đó làm sáng tỏ những lợi thế so sánh cũng như những hạn chế liên quan đến việc phát triển du lịch của thành phố Viêng Chăn.
- Đưa ra được một số giải pháp cụ thể nhằm phát triển du lịch thành phố Viêng Chăn bền vững, hiệu quả trong thời kì hội nhập đến năm 2020.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, danh mục những từ viết tắt, danh mục hình, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn về phát triển du lịch.
Chương 2. Các nhân tố ảnh hưởng và thực trạng phát triển du lịch ở thành phố Viêng Chăn.
Chương 3. Định hướng và giải pháp phát triển du lịch ở thành phố Viêng Chăn đến năm 2020.
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Các khái niệm về du lịch
1.1.1.1. Du lịch
Thuật ngữ “du lịch” ngày nay được sử dụng khá rộng rãi và phổ biến trên thế giới. Tuy nhiên còn có nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau về nguồn gốc của thuật ngữ này.
- Theo một số nhà nghiên cứu, du lịch bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp “tonos” nghĩa là đi một vòng. Thuật ngữ này được La tinh hóa thành “turnur” và sau đó thành “tour” (theo tiếng Pháp), nghĩa là đi vòng quanh, cuộc dạo chơi, còn “touriste” là người đi dạo chơi. Theo Robert Langquar (năm 1980), từ “tourism” (du lịch) lần đầu tiên xuất hiện trong tiếng Anh khoảng năm 1800 và được quốc tế hóa nên nhiều quốc gia đã sử dụng trực tiếp mà không dịch nghĩa [18]. Một số ý kiến khác lại không cho rằng thuật ngữ du lịch bắt nguồn từ Hi Lạp mà là từ tiếng Pháp “le tour”, có nghĩa là một cuộc hành trình đến nơi nào đó và quay trở lại, sau đó từ gốc này ảnh hưởng ra phạm vi toàn thế giới. Nhìn chung trên thế giới chưa có một sự thống nhất, đồng nhất quan điểm về thuật ngữ này nhưng một điển khá chắc chắn rằng thuật ngữ này được bắt nguồn từ chuyến đi đến một nơi nào đó và có sự quay trở lại. Trong tiếng Việt, thuật ngữ du lịch được giải nghĩa theo âm Hán - Việt: “du” nghĩa là đi chơi, “lịch” có nghĩa là sự từng trải.
Khái niệm về du lịch có nhiểu cách hiểu do được tiếp cận bằng nhiều cách khác nhau, sau đây là một số quan niệm về du lịch theo các cách tiếp cận phổ biến.
- Du lịch là một hiện tượng: Trước thế kỷ thứ XIX đến tận đầu thế kỷ XX du lịch hầu như vẫn được coi là đặc quyền của tầng lớp giàu có, quí tộc và người ta chỉ coi đây như một hiện tượng cá biệt trong đời sống kinh tế - xã hội.
Trong thời kỳ này, người ta coi du lịch như một hiện tượng xã hội góp phần làm phong phú thêm cuộc sống và nhận thức của con người. Đó là hiện tượng con người rời khỏi nơi cư trú thường xuyên để đến một nơi xa lạ vì nhiều mục đích khác nhau ngoại trừ mục đích tìm kiếm việc làm và ở đó họ phải tiêu tiền mà họ đã kiếm được ở nơi khác. [21]
- Du lịch là một hoạt động: Theo Mill và Morrison du lịch là hoạt động xảy ra khi con người vượt qua biên giới một nước, hay ranh giới một vùng, một khu vực để nhằm mục đích giải trí hoặc công vụ và lưu trú tại đó ít nhất 24 giờ nhưng không quá một năm. Như vậy, có thể xem xét du lịch thông qua hoạt động đặc trưng mà con người mong muốn trong các chuyến đi. Du lịch có thể được hiểu “là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một thời gian nhất định”. Với các cách tiếp cận nói trên du lịch mới chỉ được giải thích dưới góc độ là một hiện tượng, một hoạt động thuộc nhu cầu của khách du lịch.[18]
- Xem xét du lịch một cách toàn diện hơn thì cần phải cân nhắc tất cả các chủ thể tham gia vào hoạt động du lịch mới có thể khái niệm và hiểu được bản chất của du lịch một cách đầy đủ. Các chủ thể đó bao gồm: Khách du lịch, các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa và dịch vụ du lịch, chính quyền địa phương sở tại, cộng đồng dân cư địa phương. Theo cách tiếp cận này “Du lịch là tổng hợp các hiện tượng và các mối quan hệ phát sinh từ sự tác động qua lại giữa khách du lịch, các nhà kinh doanh, chính quyền và cộng đồng dân cư địa phương trong quá trình thu hút và tiếp đón khách du lịch”.
Hội nghị lần thứ 27 (năm 1993) của Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) đã đưa ra khái niệm du lịch như sau: “Du lịch là hoạt động về chuyến đi đến một nơi khác với môi trường sống thường xuyên của con người và ở lại đó để tham quan, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí hay các mục đích khác ngoài các hoạt động để có thù lao ở nơi đến với thời gian liên tục ít hơn một năm”. [21]
Trong Luật Du lịch Việt Nam (năm 2005), tại điều 4, chương I, định nghĩa: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”. [14]
Tóm lại, du lịch là một hoạt động liên quan đến một cá nhân, một nhóm hay một tổ chức đi ra khỏi nơi cư trú thường xuyên của họ bằng các cuộc hành trình ngắn ngày hoặc dài ngày ở một nơi khác với mục đích chủ yếu không phải là kiếm lời. Quá trình đi du lịch của họ được gắn với các hoạt động kinh tế, các mối quan hệ, hiện tượng ở nơi họ đến. Du lịch là hoạt động mang tính không thường xuyên của con người ở ngoài nơi công tác và nơi cư trú, diễn ra vào thời gian rảnh rỗi, nhằm mục đích tham quan, vui chơi giải trí, phục hồi sức khỏe đồng thời nâng cao nhận thức về thế giới xung quanh. Tác động của du lịch đến địa bàn hoạt động du lịch là trên mọi khía cạnh và tùy thuộc từng loại hình du lịch cụ thể. Ngược lại thì địa bàn lại quy định sự có mặt của các loại hình du lịch.
1.1.1.2. Khách du lịch
Có nhiều người đã nghiên cứu và đưa ra những ý kiến khác nhau về khái niệm “khách du lịch”. Theo một số nhà nghiên cứu, định nghĩa đầu tiên về khách du lịch xuất hiện vào cuối thế kỷ XVIII tại Pháp: “khách du lịch là những người thực hiện một cuộc hành trình lớn”.
Theo Luật Du lịch Việt Nam (năm 2005) thì “Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến”. Tại điều 34, chương V quy định: “Khách du lịch gồm khách du lịch nội địa và khách du lịch quốc tế. Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch; công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch” [14].
Việc xác định ai là du khách (khách du lịch) có nhiều quan điểm khác nhau ở đây cần phân biệt giữa khách du lịch, khách thăm quan và lữ khách dựa vào 3 tiêu thức: Mục đích, thời gian, không gian chuyến đi.
Theo nhà kinh tế học người Anh, ông Ogilvie: Khách du lịch là “tất cả những người thỏa mãn 2 điều kiện: rời khỏi nơi ở thường xuyên trong khoảng thời gian dưới một năm và chi tiêu tiền bạc tại nơi họ đến thăm mà không kiếm tiền ở đó”. Khái niệm này chưa hoàn chỉnh vì nó chưa làm rõ được mục đích của người đi du lịch và qua đó để phân biệt được với những người cũng rời khỏi nơi cư trú của mình nhưng lại không phải là khách du lịch. [18]
Hội nghị Liên hợp quốc về du lịch tại Roma (1963) thống nhất quan niệm về khách du lịch quốc tế và nội địa, sau này được tổ chức du lịch thế giới WTO (World Tourism Organization) chính thức thừa nhận: Khách du lịch quốc tế (International Tourist) là những người lưu trú ít nhất là một đêm nhưng không quá một năm tại một quốc gia khác với quốc gia thường trú với nhiều mục đích khác nhau ngoài hoạt động để được trả lương ở nơi đến. Khách du lịch nội địa (Domestic Tourist) là một người đang sống trong một quốc gia, không kể quốc tịch nào, đi đến một nơi khác không phải nơi cư trú thường xuyên trong quốc gia đó trong khoảng thời gian ít nhất 24 giờ và không quá một năm với các mục đích khác nhau ngoài hoạt động để được trả lương ở nơi đến.
Năm 1993, theo đề nghị của Tổ chức Du lịch Thế giới, Hội đồng Thống kê Liên hiệp quốc (UNSC) đã công nhận những thuật ngữ sau để thống nhất việc soạn thảo thống kê du lịch:
- Khách du lịch quốc tế (International tourist) bao gồm:
+ Khách du lịch quốc tế đến (Inbound tourist): gồm những người nước ngoài đến du lịch một quốc gia.
+ Khách du lịch quốc tế ra nước ngoài (Outbound tourist): gồm những người đang sống trong một quốc gia đi du lịch nước ngoài.
- Khách du lịch trong nước (Internal tourist): gồm những người là công dân của một quốc gia và những người nước ngoài đang sống trên lãnh thổ của quốc gia đó đi du lịch trong nước.
+ Khách du lịch nội địa (Domestic tourist): bao gồm khách du lịch trong nước và khách du lịch quốc tế đến.
+ Khách du lịch quốc gia (National tourist): bao gồm khách du lịch trong nước và khách du lịch quốc tế ra nước ngoài.
1.1.1.3. Tài nguyên du lịch
Du lịch là một trong những ngành có sự định hướng tài nguyên rõ rệt. Tài nguyên du lịch ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức lãnh thổ du lịch, hiệu quả hoạt động của ngành du lịch. Tài nguyên du lịch được phân loại thành hai hình thức cơ bản là tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn. [23]
Theo Điểm 4, Điều 4, Chương I của Luật Du lịch Việt Nam (2005):
“Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn hoá, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch” [14].
1.1.1.4. Sản phẩm du lịch
Theo Michael M.Coltman: “Sản phẩm du lịch là một tổng thể bao gồm các thành phần không đồng nhất hữu hình và vô hình”.
Theo Luật Du lịch Việt Nam (năm 2005): “Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn như cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch”. [14].
Như vậy, hiểu một cách chung nhất, sản phẩm du lịch là sự kết hợp những dịch vụ và phương tiện vật chất trên cơ sở khai thác các tài nguyên du lịch đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.
Sản phẩm du lịch bao gồm các dịch vụ du lịch, các hàng hóa và tiện nghi cung ứng cho du khách, nó được tạo nên bởi sự kết hợp các yếu tố tự nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động du lịch tại một vùng, một địa phương nào đó.